Khái niệm vốn xã hội (social capital) là gì? Khái niệm về vốn xã hội tại Việt Nam và trên thế giới? Vai trò của hội như là một nguồn vốn xã hội?
1. Khái niệm vốn xã hội là gì?
Vốn xã hội (social capital) được quan niệm là một loại vốn, bên cạnh các loại vốn khác như vốn kinh tế, vốn văn hoá, vốn con người. Khái niệm vốn xã hội (social capital) đã xuất hiện từ lâu trên thế giới nhưng còn khá mới mẻ ở Việt Nam. Phần lớn các học giả cho rằng L.J. Hanifan (một quan sát viên quốc gia các trường học vùng nông thôn ở Tây Virginia – Mỹ) là người đầu tiên đưa ra khái niệm thuật ngữ này vào năm 1916 và từ những năm 1980 trở lại đây thuật ngữ này được các nhà nghiên cứu, các nhà hoạch định chính sách về kinh tế, chính trị, xã hội quan tâm nhiều hơn và trở nên phổ biến hơn.
Theo Hanifan: “Vốn xã hội là những giá trị vô hình được tích lũy trong đời sống hàng ngày của con người, như thiện chí, sự đoàn kết, sự đồng cảm, quan hệ xã hội giữa các cá nhân và cộng đồng tạo nên một chỉnh thể xã hội. Mỗi cá nhân sẽ trở nên lạc lõng nếu làm việc đơn độc. Nhưng nếu họ giao tiếp với những người xung quanh, những giá trị xã hội sẽ được tích lũy, nó sẽ mang lại lợi ích cho cá nhân mỗi người cũng như cho xã hội và cải thiện đáng kể chất lượng cuộc sống của toàn cộng đồng”.
Đến hiện tại, có nhiều chuyên gia, học giả cả trong và ngoài nước đưa ra những khái niệm khác nhau về vốn xã hội nhưng thực tế chưa có sự thống nhất về khái niệm này. Song từ những điểm chung trong các khái niệm mà các học giả đưa ra, tác giả bài viết xin được đưa ra khái niệm của riêng mình.
Có thể hiểu một cách đơn giả nhất, vốn xã hội là nguồn lực tạo liên kết, các giá trị được chia sẻ và hiểu biết trong xã hội cho phép các cá nhân, các nhóm/tổ chức tin tưởng lẫn nhau và làm việc cùng nhau, giải quyết các việc chung và phát triển lan tỏa. Nó được tạo ra thông qua việc phát triển các quan hệ xã hội hay mạng lưới xã hội và các cá nhân, tổ chức có thể sử dụng vốn xã hội để tìm kiếm lợi ích. Vốn xã hội cung cấp chất gắn kết tạo thuận lợi cho việc hợp tác, trao đổi và đổi mới. Nó có thể đem lại lợi ích kinh tế hoặc phi kinh tế và được đo lường bằng các yếu tố “vô hình”, yếu tố phi vật chất.
2. Vai trò của hội như là một nguồn vốn xã hội:
Nhiều công trình nghiên cứu gần đây đã chứng minh vai trò to lớn của các hội với cộng đồng và quốc gia, dân tộc, từ đó cổ vũ quan điểm xem các hội như là một “nguồn vốn xã hội”, và nhiệm vụ của các nhà nước là khai thác, sử dụng nguồn vốn này phục vụ sự phát triển của xã hội.
Cụ thể, các tác giả Rupasingha A, Goetz SJ, Freshwater D trong một bài báo có tên là “Sản phẩm vốn xã hội ở nước Mỹ” công bố trên tạp chí “The Journal of Socio–economics” vào năm 2006 cho rằng các hội được hình thành không phải chỉ là để tụ tập, hội hè đình đám, để tổ chức uống rượu và đi du ngoạn, mà là nơi giúp các cá nhân và nhóm liên kết lại, nói lên tiếng nói của mình.
Các hội một mặt là phương tiện giúp cho các cá nhân và nhóm tránh được trạng thái biệt lập, mặt khác cho phép các cá nhân thực hiện những hoạt động tương tác, tạo ra sức mạnh chung của cộng đồng. Các cá nhân, thông qua những hoạt động trong tổ chức hội, có thể khai thác sức mạnh chung này như khai thác một nguồn vốn. Từ cách tiếp cận đó, các tác giả nhấn mạnh rằng trong xã hội hiện đại, cần xem các hội như một nguồn vốn xã hội và cần khai thác, sử dụng nguồn vốn đó để giúp các cá nhân vượt qua các trở ngại và phát triển năng lực của bản thân họ .
Cũng có quan điểm xem các hội như là một nguồn vốn xã hội, Mahyar Arefi cho rằng điều quan trọng nhất để huy động được nguồn vốn này là yếu tố đồng thuận. Đồng thuận đóng vai trò là một chỉ số tích cực trực tiếp của vốn xã hội. Ở đây, đồng thuận có hàm ý là “sự quan tâm chung” – hay sự thoả thuận giữa các thành viên để tạo thành hành động tập thể, thành sức mạnh chung. Bởi vậy, theo Mahyar Arefi, hành động tập thể trong một hội là một chỉ số để đo lường mức độ của vốn xã hội.
Tương tự, theo phân tích của các tác giả Paul van Seeters và Paul James, thì với tính chất là một sự hỗ trợ xã hội đắc lực cho cá nhân, các hội có thể tồn tại, mở rộng và bao trùm lên toàn bộ cuộc sống của con người. Nó khiến cho một cá nhân có thể sẽ là thành viên của đồng thời nhiều hội và liên hiệp hội. Sự chọn lựa tham gia vào các hội nhìn chung là mang đến những nguồn lực tốt cho các cá nhân và cộng đồng, và do vậy, theo Paul van Seeters và Paul James, thì về hình thức, người nào càng tích cực tham gia vào nhiều hội, người đó sẽ có nguồn vốn xã hội càng lớn. Đây chính là điểm cần nhấn mạnh khi nói đến vị trí và vai trò của các hội.
Tiếp tục mở rộng những quan điểm của các tác giả nêu trên, Edwards và Foley, trong một ấn bản đặc biệt có tên là Nhà khoa học Hành vi Hoa Kỳ, đã phân tích sâu sự gắn kết giữa những vấn đề mà các ông nêu lên là “Vốn xã hội, Xã hội Dân sự và Nền dân chủ đương đại“, từ đó đưa ra hai nhận định quan trọng trong nghiên cứu về vốn xã hội đó là:
Thứ nhất, giống như các hình thức vốn khác, vốn xã hội không có sẵn cho tất cả mọi người. Nó phụ thuộc rất nhiều vào những điều kiện khách quan về địa lý và xã hội, cũng như điều kiện chủ quan về khả năng tham gia của từng cá nhân vào mạng lưới xã hội. Điều kiện khách quan lý tưởng cho việc phát huy vốn xã hội là một xã hội dân chủ và phát triển, nơi mà mọi cá nhân có thể tham gia vào các hội một cách dễ dàng. Về điều kiện chủ quan, trình độ văn hoá và khả năng tài chính của một cá nhân là những yếu tố thuận lợi cho việc tham gia vào các hội.
Thứ hai, không phải tất cả vốn xã hội đều được tạo ra như nhau. Giá trị của một nguồn vốn xã hội cụ thể phụ thuộc rất nhiều vào bối cảnh kinh tế, xã hội ở nơi sinh sống, và vị thế, vai trò của các cá nhân trong cộng đồng – những điều tác động đến khả năng tham gia rộng rãi của cá nhân vào các hội.
Đối với một quốc gia, việc phát huy vốn xã hội liên quan đến sự thành công của nền dân chủ và sự tham gia chính trị của người dân. Về vấn đề này, nhà khoa học chính trị nổi tiếng, giáo sư trường Harvard là Robert D. Putnam trong cuốn sách “Sự sụp đổ và hồi phục của cộng đồng người Mỹ” xuất bản năm 2000 đã đưa ra nhận xét rằng, việc không chú trọng huy động vốn xã hội gắn liền với sự suy giảm gần đây về sự tham gia chính trị của người dân Mỹ. Từ các nghiên cứu thực nghiệm của mình, Putnam nhận thấy khi người dân ít tham gia vào các hội, thì đồng thời họ cũng không có khả năng mở rộng sự liên kết để thực hiện điều mà ông gọi là “bắc cầu vốn xã hội”.
Cũng từ những nghiên cứu của mình, Putnam đã đưa ra một lý thuyết nổi tiếng có tên là “lý thuyết về vốn xã hội ngủ”, trong đó ông khẳng định rằng việc hạn chế hoạt động của các hội có thể khiến cho xã hội trở nên trì trệ, chậm phát triển. Việc để cho vốn xã hội “ngủ” cũng giống như điều mà các nhà kinh tế học vẫn thường gọi là để vốn từ bảng trong trạng thái “vốn chết” vậy .
Chịu ảnh hưởng của R. Putnam, Paul van Seeters và Paul James cho rằng nước nào có nhiều hội và quản lý, phát huy tốt vai trò của các hội thì nước đó sẽ có được những nguồn vốn xã hội lớn. Các ông cho rằng, sự tồn tại của các hội thường gắn liền với những đặc trưng riêng của mỗi quốc gia, nhưng tự bản thân chúng luôn là thước đo sự tiến bộ và tiềm năng của mỗi quốc gia đó. Vấn đề là ở chỗ, cần phải nhận biết tầm quan trọng và khắc phục được những mặt hạn chế của của các hội để một mặt không để các hội “ngủ” (trở thành “vốn chết”), mặt khác cũng không để sự hoạt động của các hội tạo ra bất ổn cho xã hội.
Ở khía cạnh thứ hai nêu trên, nhà xã hội học Mỹ Portes, A. trong một bài viết nhan đề Social Capital: its origins and applications in modern sociology (Vốn xã hội: Nguồn gốc và ứng dụng của nó trong xã hội học hiện đại) công bố vào năm 1998, bên cạnh việc nêu lên những nhân tố có thể giúp nâng cao vốn xã hội của hội, cũng xác định một số hậu quả tiêu cực có thể phát sinh đối với các thành viên và với xã hội nếu như hội không được tổ chức và quản lý phù hợp, đó là: sự khép kín, loại trừ người ngoài nhóm; hạn chế về sự tự do cá nhân, bao gồm cả sự tự do trình bày ý kiến trong nhóm, và quan điểm cực đoan gây rối loạn cộng đồng .
Từ những lý thuyết trên, có thể khẳng định hội có vai trò đặc biệt quan trọng với sự tồn tại và phát triển của các cộng đồng và các quốc gia. Mặc dù vậy, hội cũng đồng thời tiềm ẩn những rủi ro với an ninh, trật tự xã hội ở những nơi nó được thành lập và hoạt động. Bởi vậy, việc tôn trọng, bảo vệ tự do hiệp hội là cần thiết, song đồng thời cũng cần đặt hội dưới sự quản lý của nhà nước, và dưới sự chế ước của pháp luật.