Tiêu chuẩn quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em? Pháp luật lao động Việt Nam về xóa bỏ lao động trẻ em? Xóa bỏ lao động trẻ em theo 02 Hiệp định CPTPP và EVFTA?
Trẻ em là đối tượng dễ bị tổn thương. Hiện nay, do những tác động nghiêm trọng của đại dịch COVID–19, trẻ em cần được bảo vệ chống lại lao động trẻ em hơn bao giờ hết. Theo Báo cáo “Lao động trẻ em: Ước tính toàn cầu 2020, xu hướng và con đường phía trước” của ILO và Quỹ Nhi đồng Liên hiệp quốc (UNICEF), trong vòng 04 năm, từ năm 2016 – 2020, số lao động trẻ em trên toàn thế giới trong độ tuổi từ 5– 11 đã tăng lên 160 triệu trẻ; trong đó, chỉ riêng số trẻ em trong độ tuổi 5–17 phải làm các công việc có thể gây tổn hại tới sức khỏe, sự an toàn và tinh thần của trẻ em đã tăng lên 79 triệu trẻ.
Đến năm 2021, theo ILO thống kê thì tỷ lệ lao động trẻ em có giảm nhưng vẫn còn khoảng 152 triệu trẻ em hiện đang tham gia hình thức lao động này. ILO cũng dự báo dưới ảnh hưởng của đại dịch COVID–19, tỷ lệ lao động trẻ em trên toàn thế giới sẽ đứng trước nguy cơ tăng trở lại . Tuy nhiên, Tổ chức này cho rằng bằng những nỗ lực hành động tập thể và quyết đoán, cộng đồng thế giới hoàn toàn có thể đảo ngược xu hướng này.
Tại Việt Nam, theo ước tính của UNICEF thì có hơn một triệu trẻ em từ 5 – 17 tuổi đang tham gia lao động, hơn một nửa trong số đó đang làm những công việc lao động nặng nhọc, độc hại và nguy hiểm .
Thực tế vấn đề lao động trẻ em không phải đến thời điểm này mới nóng và được quan tâm cấp thiết. Mà lao động trẻ em là vấn đề đã được ILO bảo vệ từ trước đó rất lâu thông qua chùm Công ước: Công ước số 138 và Công ước số 182. Xóa bỏ lao động trẻ em là một trong bốn tiêu chuẩn lao động quốc tế cơ bản hiện nay và cũng là cam kết của tất cả quốc gia thành viên 02 FTA thế hệ mới hiện nay là CPTPP và EVFTA.
1. Tiêu chuẩn quốc tế về xóa bỏ lao động trẻ em:
Hiện nay, chưa có một văn bản pháp lý nào đưa ra khái niệm chính thức về lao động trẻ em. Thông qua Công ước về quyền trẻ em và Công ước số 182 của ILO mới chỉ cho thấy định nghĩa về trẻ em: “Thuật ngữ “trẻ em” sẽ áp dụng cho tất cả những người dưới 18 tuổi” (Điều 2) . Tuy nhiên, đối với phạm trù lao động trẻ em, chỉ mình độ tuổi thì không thể xem đó là căn cứ xác định công việc mà trẻ em làm có phải là lao động trẻ em hay không. Bên cạnh yếu tố độ tuổi thì cần phải xem xét đến yếu tố tính chất công việc mà trẻ em làm. Tại khoản 3 Điều 2 Công ước số 138 có quy định, tuổi lao động tối thiểu không được dưới độ tuổi kết thúc chương trình giáo dục bắt buộc và trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được dưới 15 tuổi .
Tuy nhiên, Công ước số 138 cũng khẳng định một người từ đủ 15 tuổi thì không có nghĩa họ có thể làm tất cả mọi công việc như người trưởng thành bởi lẽ họ vẫn chỉ là trẻ em. Do đó, đối với mọi loại việc làm hoặc loại lao động mà tính chất hoặc điều kiện làm việc có thể có hại cho sức khỏe, an toàn hay phẩm hạnh của trẻ em thì mức tối thiểu không được dưới 18 tuổi (khoản 1 Điều 3) . Tuy nhiên, đây không phải là một quy định cứng nhắc mà Công ước số 138 có tính đến điều kiện kinh tế và giáo dục của nước thành viên để đưa ra các điều khoản linh hoạt, cho phép các quốc gia:
Thứ nhất, đối với những nước có nền kinh tế và các phương tiện giáo dục chưa phát triển đầy đủ, ILO cho phép ghi nhận tuổi lao động tối thiểu là 14 tuổi trong giai đoạn đầu. Theo thống kê của ILO thì tính đến tháng 6/2018, đã có 51/171 thành viên Công ước số 138 ấn định độ tuổi lao động tối thiểu là 14 tuổi . Ở các quốc gia này, trẻ em có thể làm việc hợp pháp từ năm 14 tuổi trừ các công việc nguy hiểm và đã hoàn thành giáo dục bắt buộc.
Thứ hai, Các quốc gia có thể cho phép sử dụng lao động dưới độ tuổi lao động tối thiểu trong những công việc nhẹ nhàng, không phương hại đến sức khỏe, sự phát triển hoặc không ảnh hưởng đến khả năng học tập của trẻ em. Đối với các quốc gia ấn định độ tuổi lao động tối thiểu là 15 tuổi thì có thể hạ xuống là 13 – 14 tuổi, trường hợp tuổi lao động tối thiểu là 14 tuổi thì có thể hạ xuống là 12 – 13 tuổi .
Thứ ba, Các quốc gia có thể cho phép sử dụng lao động trẻ em từ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi vào các công việc nguy hiểm nếu việc lao động đó không phương hại đến an toàn và phẩm hạnh của trẻ em, đồng thời trẻ em phải được đào tạo nghề tương ứng với ngành lao động đó .
Thứ tư, Các nước thành viên có thể không áp dụng quy định về tuổi lao động tối thiểu trong một số loại công việc nhất định nếu việc áp dụng đó có thể gây ra những vấn đề đặc biệt khi thi hành, nhưng nước thành viên phải có báo cáo tường trình, chứng minh cho lý do không áp dụng đó .
Thứ năm, Nước thành viên có nền kinh tế và các phương tiện hành chính chưa phát triển đầy đủ có thể tạm hoãn áp dụng quy định về tuổi lao động tối thiểu trong một số ngành nghề trong giai đoạn đầu, nhưng không được loại trừ các ngành: Công nghiệp khai khoáng, công nghiệp chế tạo; xây dựng; điện, khí đốt và nước; các dịch vụ vệ sinh y tế; vận tải; lưu giữ trong kho và giao thông; các đồn điền và các cơ sở nông nghiệp khác được khai thác nhằm mục đích thương mại .
Thứ sáu, Không áp dụng quy định về tuổi lao động tối thiểu đối với công việc do trẻ em thực hiện trong phạm vi giáo dục – đào tạo hoặc biểu diễn nghệ thuật nếu được cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp phép.
2. Pháp luật lao động Việt Nam về xóa bỏ lao động trẻ em:
Cho đến nay, Việt Nam đã tham gia tất cả các điều ước quốc tế cơ bản liên quan đến lao động trẻ em, bao gồm Công ước về quyền trẻ em năm 1989 của Liên Hợp quốc, 02 Nghị định thư không bắt buộc bổ sung Công ước về quyền trẻ em và chùm Công ước số 182 và số 138 của ILO. Qua đó, có thể thấy sự quan tâm đặc biệt của Đảng và Nhà nước ta đối với vấn đề lao động trẻ em. Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em luôn được xem là nhiệm vụ có tầm quan trọng đặc biệt trong chiến lược phát triển nguồn lực con người của Việt Nam. Hiến pháp năm 2013 khẳng định: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em” (khoản 1 Điều 37) . Theo quy định của Luật Trẻ em năm 2016 thì “trẻ em là người dưới 16 tuổi” .
Trong phạm vi bảo vệ, chăm sóc và giáo dục trẻ em, Hiến pháp đặc biệt quan tâm tới vấn đề lao động trẻ em. Nghiêm cấm sử dụng lao động trẻ em là một quy định Hiến định.
Pháp luật Việt Nam không quy định về lao động trẻ em mà quy định về độ tuổi lao động tối thiểu. BLLĐ 2019 quy định độ tuổi lao động tối thiểu là đủ 15 tuổi và nghiêm cấm sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi vào các công việc nặng nhọc, nguy hiểm. Với quy định này, pháp luật lao động nước ta đã bảo đảm tính tương thích về tuổi lao động tối thiểu của ILO.
Mặc dù không quy định về lao động trẻ em nhưng pháp luật lao động Việt Nam có quy định về người lao động chưa thành niên. BLLĐ năm 2019 đã dành hẳn Mục 1 Chương XI để quy định về lao động chưa thành niên: nguyên tắc sử dụng lao động chưa thành niên; sử dụng người chưa đủ 15 tuổi làm việc, thời giờ làm việc của người chưa thành niên; công việc và nơi làm việc cấm sử dụng người lao động từ đủ 15 tuổi đến chưa đủ 18 tuổi.
Theo quy định của BLLĐ năm 2019 thì lao động chưa thành niên là người lao động chưa đủ 18 tuổi. Đồng thời, Bộ luật quy định nghiêm cấm sử dụng lao động chưa thành niên trái pháp luật.
Tương tự như Công ước số 138 của ILO, BLLĐ năm 2019 của Việt Nam cũng có những điều khoản linh hoạt. Tức là trong phạm vi điều chỉnh của Bộ luật vẫn cho phép sử dụng lao động chưa thành niên trừ những trường hợp bị cấm. Việc sử dụng lao động trẻ em một cách linh hoạt trong các độ tuổi lao động tối thiểu phải đáp ứng các điều kiện nghiêm ngặt sau đây:
Thứ nhất, điều khoản linh hoạt về độ tuổi lao động tối thiểu:
i) Pháp luật cho phép người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi được làm các công việc nhẹ thuộc Danh mục công việc nhẹ người từ đủ 13 tuổi đến dưới 15 tuổi được làm do Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội ban hành, bao gồm: Biểu diễn nghệ thuật; Vận động viên thể thao; Lập trình phần mềm; Các nghề truyền thống; Các nghề thủ công mỹ nghệ; Đan lát; Gói nem, gói kẹo, gói bánh (thủ công); Nuôi tằm; Làm nông nghiệp (nhẹ); Chăn thả gia súc tại nông trại; Phụ gỡ lưới cá, đan lưới cá, phơi khô thủy sản; Cắt chỉ, đơm nút, đóng gói vào hộp các sản phẩm dệt thủ công .
ii) Đối với người chưa đủ 13 tuổi, pháp luật cho phép được làm các công việc nghệ thuật, thể dục, thể thao nhưng không làm tổn hại đến sự phát triển thể lực, trí lực, nhân cách của người chưa đủ 13 tuổi và phải có sự đồng ý của cơ quan chuyên môn về lao động thuộc Ủy ban nhân dân cấp tỉnh.
Thứ hai, điều kiện khi áp dụng điều khoản linh hoạt:
Khi sử dụng lao động trẻ em, người sử dụng lao động phải tuân thủ các điều kiện bắt buộc về nguyên tắc sử dụng lao động trẻ em; thủ tục thuê lao động trẻ em; giờ làm việc và số ngày nghỉ đối với lao động trẻ em theo quy định của BLLĐ năm 2019: i) Các nguyên tắc sử dụng lao động trẻ em được quy định tại Điều 144 BLLĐ năm 2019; ii) Về thủ tục thuê lao động trẻ em: Người sử dụng lao động phải giao kết hợp đồng lao động bằng văn bản với lao động trẻ em và người đại diện của trẻ em; phải có giấy khám sức khỏe xác nhận lao động trẻ em đủ sức khỏe để làm công việc đó và tổ chức kiểm tra sức khỏe định kỳ ít nhất 06 tháng/01 lần; phải bảo đảm điều kiện làm việc, an toàn, vệ sinh lao động phù hợp với lứa tuổi; iii) Về giờ làm việc: Lao động trẻ em được bố trí giờ làm việc để không ảnh hưởng đến thời gian học tập; thời giờ làm việc không được quá 04 giờ trong 01 ngày và 20 giờ trong 01 tuần; không được làm thêm giờ hay làm vào ban đêm; và iv) Về số ngày nghỉ: Số ngày nghỉ hằng năm của lao động trẻ em là 14 ngày làm việc, cao hơn 02 ngày so với người làm công việc trong điều kiện bình thường.
Bên cạnh các công cụ hành chính, dân sự, thì trong hệ thống pháp luật Việt Nam, lao động trẻ em còn được bảo vệ bởi các chế tài hình sự. Điều 296 Bộ luật Hình sự năm 2015 đã hình sự hóa hành vi vi phạm trong sử dụng lao động trẻ em thành tội vi phạm quy định về sử dụng người lao động dưới 16 tuổi. Theo đó, người sử dụng người dưới 16 tuổi làm những công việc nặng nhọc, nguy hiểm hoặc tiếp xúc với các chất độc hại theo danh mục mà Nhà nước quy định thì bị phạt tiền từ 30.000.000 đồng đến 200.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 10 năm tùy theo mức độ nghiêm trọng của vi phạm .
Như vậy, về cơ bản, các quy định của pháp luật lao động Việt Nam đã đáp ứng sự tương thích với các quy định của ILO hay chính là cam kết của nước ta trong 02 Hiệp định CPTPP và EVFTA về xóa bỏ lao động trẻ em.