Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì? - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - DG - Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì?

Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì?

Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trước năm 1985? Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội là gì? (Theo nhiều quan điểm khác nhau).

Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội một trong các chế định nhỏ thể hiện tính nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, thể hiện chính sách hình sự của Nhà nước khoan hồng đối với những người ý định phạm tội, đang chuẩn bị phạm ti hoặc đã bắt tay vào việc thực hiện tội phạm tự ý chấm dứt hành vi phạm tội của mình. Qua đó, loại bỏ hoặc hạn chế những hậu quả nguy hiểm cho hội. Với ý nghĩa đó, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được pháp luật nh sghi nhận rất sớm

1. Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trước năm 1985:

Chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội lần đầu tiên được quy định tại Điều 20, Pháp lệnh Trừng trị các tội phản cách mạng ngày 30/10/1967 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội. Đó ...âm mưu phạm tội nhưng đã tự nguyện không thực hiện tội phạm.... đây, tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được gọi tự nguyện không thực hiện âm mưu phạm tội

Từ thực tế xét xử tại Tòa án nhân dân tối cao giai đoạn 19601985 (tính từ khi thực hiện Luật Tổ chức Tòa án nhân dân đến khi thông qua BLHS lần thứ nhất), một số báo cáo tổng kết chuyên môn cũng đã đề cập đến vấn đề này, như

Tại Bản báo cáo tổng kết chuyên đề Về thực tiễn xét xử loại tội giết ngườisố 452/HS2 ngày 10/8/1970 của Tòa án nhân dân tối cao nội dung

Trường hợp mặc đã ràng can phạm ý định giết người hoặc khi không xác định được ràng ý thức của mình nhưng nếu được nửa chừng hành động, can phạm thấy nạn nhân đã bị thương tích, chủ động tự mình chấm dứt tấn công, tuy biết rằng còn thể hành động, chỉ nên định tội cố ý gây thương ch, không nên định tội giết người chưa đạt

Tại Bản báo cáo tổng kết thực tiễn vận dụng các tình tiết tăng nặng, giảm nhẹ trong công tác xét xử về hình sự năm 1976 của Tòa án nhân dân tối cao cũng quy định

trường hợp ngăn chặn hậu quả thiệt hại của một tội đã bắt đầu nhưng chưa kết thúc tức trường hợp tự nguyện nửa chừng chấm dứt tội phạm. Nhiều Tòa án đã giải quyết đúng đắn trường hợp này, không xử người hành vi phạm tội mà hđã đình chỉ thực hiện chỉ t TNHS của họ đối với hậu quả thực tế họ đã gây ra

Như vậy, trong giai đoạn từ năm 19601985, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định tản mạn trong các văn bản pháp quy, chưa được quy định một cách tập trung thống nhất. Mỗi n bản chỉ quy định cho từng trường hợp phạm tội riêng biệt chưa quy định chung cho tất cả các loại tội, các văn bản này cũng chưa có sự nhất quán trong việc sử dụng thuật ngữ. Chẳng hạn, Điều 20 Pháp lệnh Trừng trị các tội phản cách mạng năm 1967 gọi tự nguyn, Bản báo cáo tổng kết số 452/HS2 năm 1970 gọi tmình chấm dứttại Bản báo cáo tổng kết năm 1976 thì gọi đình chỉ. Điều này cho thấy mỗi thuật ngữ trên mới chỉ thể hiện được một phần bản chất của chế định này. vậy, đòi hỏi phải tìm ra một thuật ngữ mang tính khái quát hơn, thể hiện được đầy đủ bản chất của chế định

2. Khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội theo Bộ luật hình sự:

Trong lần pháp điển hóa lần thứ nhất, BLHS m 1985 BLHS đầu tiên đã nâng khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội thành một chế định riêng tại Điều 16, theo đó tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được hiểu : Tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không ngăn cản. Trong quá trình áp dụng chế định này, Hội đng Thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao ban nh Nghị quyết s02/HĐTP ngày 05/01/1986 Nghị quyết s01HĐTP/NQ ngày 19/04/1989 hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội của người thực hành tội phạm hướng dẫn về việc tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các trường hợp đồng phạm

Đến lần pháp điển hóa lần thứ hai, BLHS năm 1999, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định tại Điều 19 của Bộ luật về bản không thay đổi so với quy định ti Điều 16, BLHS m 1985

Đến lần pháp điển hóa lần thứ ba, BLHS năm 2015, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định ti Điều 16 của Bộ luật về nội dung không thay đổi so với quy định tại Điều 19, BLHS năm 1999. Đó : Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không ngăn cản. Qua mỗi lần pháp điển hóa thì khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội ngày càng được ràng và đầy đủ hơn

Song song với quá trình pháp điển hóa từ năm 1985 đến nay, trong khoa học luật hình sự cũng nhiều quan điểm khác nhau, cụ thể

Theo tác giNguyễn Ngọc Hòa thì Chủ thể đã tự mình chủ động đình chỉ hành vi phạm tội, mặc không ngăn cản người đó thực hiện tội phạm đến cùng

Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam Phần chung của Trường Đại học Cảnh sát nhân dân năm 1995 thì Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trường hợp người phạm tội tự nguyện ngừng hẳn việc thực hiện tội phạm không ngăn cản

Theo Từ điển giải thích thuật ngữ luật học của Trường Đại học Luật Nội năm 1999 thì Tự mình không thực hiện tiếp tội phạm khi tội phạm chưa hoàn thành tuy không ngăn cản

Theo các tác giả Nguyễn Ngọc Điệp, Mạnh Thông thì Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội sự tự kiềm chế của một người để không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội mà hđã bắt đầu mặc họ biết khả năng làm việc đó không ngăn cản

Theo cuốn Bình luận khoa học BLHS Việt Nam năm 1999 của Bộ pháp thì Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng, tuy không có ngăn cản

Theo tác giả Cảm thì Tự ý nửa chừng chấm dứt tội phạm trường hợp trong đó mặc người phạm tội đầy đủ điều kiện khách quan thực hiện được tội phạm đến cùng nhưng đã tự mình đình chhành vi chuẩn bị phạm ti hoặc hành vi cố ý để thực hiện ti phạm, tuy kng ngăn cản

Theo Giáo trình Luật Hình sPhần chung của Khoa Luật, Đại học Quốc gia Nội năm 2003 thì ...đây trường hợp chủ thể đã tự mình chủ động đình chỉ hành vi phạm tội, mặc không gì ngăn cản người đó thực hiện tội phạm đến cùng”

Theo tác giả Trịnh Tiến Việt thì Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội một chế định nhân đạo của Luật hình sự Việt Nam, thể hiện sự tự nguyện dứt khoát của một người không thực hiện ý định hoặc hành vi phạm tội của mình đến cùng mặc họ khả năng thực hiện điều kiện khách quan không gì ngăn cản

Theo Giáo trình Luật hình sự Việt Nam, Tập I, Trường Đại học Luật Nội năm 2010 thì Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tự mình không thực hiện tiếp tội phạm khi tội phạm chưa hoàn thành, tuy không ngăn cản

Theo tác giả Kim Dung đánh giá: Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội một khái niệm pháp trước đây chúng ta quen gọi tự nguyện đình chỉ, đó cách gọi tắt chứ bản thân chưa phản ánh cái cả. Đáng ra phải gọi tự ý đình chỉ việc thực hiện tội phạm, nhưng việc gọi như vậy vẫn chưa ràng, chưa nói lên được can phạm tự ý đình chỉ giai đoạn phạm tội nào. Vì vậy BLHS m 1985 nêu khái niệm tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tộihoàn toàn chính xác đầy đủ

Đồng quan điểm với tác giả Kim Dung, quan điểm cho rằng, một số tác giả sử dụng thuật ngữ Tự nguyện đình chỉ thay cho thuật ngữ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, thì việc sử dụng thuật ngữ Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tộichính xác hơn, bởi , nếu sử dụng cụm từ “Tự nguyện đình chỉthì chưa thể hiện được người thực hiện nh vi phạm tội dừng lại giai đoạn o. Hơn nữa, sdụng cụm từ tự ýthay tự nguyệnthể hiện đầy đủ hơn việc chủ thể từ bỏ hẳn ý định phạm tội không ngăn cản. Điều đó cũng thể hiện được rằng ngay cả khi điều kiện hoàn cảnh khách quan tác động vào người phạm tội (như hoàn cảnh của nạn nhân tác động làm người phạm ti thấy thương hại...) làm thay đổi ý chí của người phạm tội, từ đó họ đã không thực hiện đến cùng hành vi phạm tội của mình

Nghiên cứu các khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trên đây cho thấy, mặc còn một sđiểm khác nhau nhưng đều một số điểm chung như sau

Tuy các quan điểm có skhác nhau nhất định nhưng c khái niệm đều nêu lên được điều kiện khách quan điều kiện chquan của tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội hoàn toàn do ý chí chủ quan của chủ thể về khách quan không ngăn cản, cản trở chủ thể thực hiện hành vi phạm tội

Về thời điểm được coi chấm dứt việc phạm tội là không thực hiện tội phạm đến cùngtức các giai đoạn: chuẩn bị phạm tội hoặc phạm tội chưa đạt chưa hoàn thành (Riêng tại Bản báo cáo tổng kết năm 1976 thì thời điểm được coi tự ý nửa chng chấm dứt việc phạm tội muộn hơn. Nó thừa nhận cả trường hợp người phạm tội đã thực hiện hết các hành vi cần thiết, đã gây ra hậu quả thiệt hại, nhưng lại kịp thời ngăn chặn được thiệt hại thì vn được coi tý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội)

Như vậy, tổng kết tất cả các quan điểm khoa học khác nhau đã được dẫn ra trên đây, đồng thời trên sở quy định về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội trong các BLHS thực định. Theo quan điểm của chúng tôi, thống nhất với khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được quy định tại Điều 16 BLHS năm 2015. Đó Tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội tự mình không thực hiện tội phạm đến cùng tuy không ngăn cản. Tuy nhiên, theo quan điểm chúng tôi, khái niệm này vẫn còn một số vấn đề cần trao đổi, làm nsau

Tại Điều 16 BLHS năm 2015 sử dụng cụm từ việc phạm tội, theo chúng tôi sử dụng cụm từ này chưa chính xác, chỉ thể hiện được việc áp dụng chế định này đối với người trực tiếp thực hiện tội phạm (người thực hành) chưa thể hiện được việc tự ý nửa chừng chấm dứt hành vi nguy hiểm cho hội của các dạng người đồng phạm khác (người tổ chức, người xúi giục, người giúp sức), những người này không phải người trực tiếp thực hiện tội phạm hành vi của họ gián tiếp tác động đến khách thể của tội phạm thông qua nh vi của người thực hành. Bản thân thuật ngữ việc phạm tộicũng chưa một khái niệm ràng thống nhất trong các quy định của pháp luật hình sự, trong khoa học luật hình sự cũng như trong thực tiễn áp dụng. Mặt khác, việc chấm dứt đây cần thiết phải thể hiện đó chấm dứt hành vi nguy hiểm cho hội được coi tội phạm. vậy, theo chúng tôi nên sử dụng thuật ngữ tội phạmthay cho thuật ngữ việc phạm tộitrong tên gọi của chế định cũng như trong nội dung của chế định này. Sử dụng thuật ngữ “tội phạmkhông chỉ bao hàm được cả trường hợp tự ý nửa chừng của các dạng người đồng phạm còn thống nhất với khái niệm về tội phạm được quy định cụ thể tại Điều 8 BLHS năm 2015, từ đó cách hiểu thống nhất đầy đủ hơn

Tại Điều 16 BLHS năm 2015 dùng cụm từ tuy không ngăn cảnđể thể hiện ý chí tự nguyện không thực hiện tội phạm đến cùng của người phạm tội. Về vấn đề này, quan điểm cho rằng nên thay cụm từ trên bằng cụm từ mặc họ ý thức được khả ng thực hiện đưc tội phạm đến cùng, cho rằng: việc sử dụng cụm từ tuy không có ngăn cảnkhông chính xác và không đúng với bản chất của chế định này. đây chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội, việc xem xét chủ thể thực sự tự ý hay không, chúng ta không chỉ căn cứ vào thực tế khách quan để đánh giá, phải xem xét thực tế khách quan đó được chủ thể nhận thức hay không, trở ngại khách quan chỉ tác động đến quyết tâm thực hiện tội phạm đến cùng của một người khi họ nhận thức được điều đó

Học viên đồng ý với quan điểm trên cho rằng: việc dừng lại không thực hiện tiếp tội phạm hoàn toàn xuất phát từ ý chí chủ quan của người phạm tội, để đưa ra được quyết đnh dừng lại hay tiếp tục, chủ thể phải dựa vào nhận thức đánh giá của mình về thực tại khách quan gì ngăn cản hay không chứ không phải xác định xem thực tại khách quan không gì ngăn cản việc tiếp tục thực hiện tội phạm. Đây vấn đề rất khó phức tạp trên thực tế khi xem xét, đánh giá tội danh, xem xét TNHS cho người phạm tội, quan thẩm quyền cần hướng dẫn cụ thể vấn đề này

Xung quanh khái niệm về tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội đã được pháp luật hình sự quy định hiện nay, quan điểm cho rằng cần mở rộng ki niệm này đối với cả trường hợp phạm tội chủ thể đã thực hiện hết những hành vi cho cần thiết để đạt được mục đích đã được định trước nhưng hậu quả của tội phạm không xảy ra chủ thể đã hành động tích cực ngăn chặn. Trong trường hợp này, chế định tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội được mở rộng cả tới trường hợp tội phạm giai đoạn chưa đạt đã hoàn thành. Theo chúng tôi, để khuyến khích hơn nữa người phạm tội từ bỏ ý định phạm tội và những hành động tích cực ngăn chặn hậu quả của tội phạm khi chưa xảy ra cần thiết. vậy, nên coi đây cũng một trường hợp tự ý nửa chừng chấm dứt việc phạm tội

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com