Khả năng phân biệt của nhãn hiệu. Các dấu hiệu đưa ra để phân biệt nhãn hiệu được xem xét ở những góc độ nào?
Để bảo đảm sự bảo hộ nhãn hiệu được hiệu quả thì khả năng phân biệt nhãn hiệu là một trong những yếu tố rất quan trọng. Căn cứ theo điều 74 – Luật sở hữu trí tuệ 2005 thì khả năng phân biệt của nhãn hiệu được đánh giá dưới các góc độ như sau:
Thứ nhất, khả năng tự phân biệt:
Pháp luật quy định nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt được tạo thành từ các yếu tố dễ nhận biết. Mà yếu tố dễ nhận biết ở đây chính là xuất phát từ những đặc điểm cơ bản vốn có của nhãn hiệu. Hay còn được gọi là khả năng tự phân biệt của nhãn hiệu.
– Hình và hình hình học đơn giản, chữ số, chữ cái, chữ thuộc các ngôn ngữ không thông dụng, trừ trường hợp các dấu hiệu này đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu;
– Dấu hiệu, biểu tượng quy ước, hình vẽ hoặc tên gọi thông thường của hàng hoá, dịch vụ bằng bất kỳ ngôn ngữ nào đã được sử dụng rộng rãi, thường xuyên, nhiều người biết đến;
– Dấu hiệu chỉ thời gian, địa điểm, phương pháp sản xuất, chủng loại, số lượng, chất lượng, tính chất, thành phần, công dụng, giá trị hoặc các đặc tính khác mang tính mô tả hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã đạt được khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng trước thời điểm nộp đơn đăng ký nhãn hiệu;
– Dấu hiệu mô tả hình thức pháp lý, lĩnh vực kinh doanh của chủ thể kinh doanh;
Thứ hai, khả năng phân biệt qua sử dụng:
Một nhãn hiệu có khả năng phân biệt thông qua quá trình sử dụng. Qua quá trình nhãn hiệu được đưa vào sử dụng thông qua sự thừa nhận nhãn hiệu của thị trường mà tạo nên khả năng phân biệt đối với các nhãn hiệu khác.
Dấu hiệu chỉ nguồn gốc địa lý của hàng hoá, dịch vụ, trừ trường hợp dấu hiệu đó đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi với danh nghĩa một nhãn hiệu hoặc được đăng ký dưới dạng nhãn hiệu tập thể hoặc nhãn hiệu chứng nhận quy định tại Luật này;
Đây là một trong những khả năng phân biệt rất quan trọng, khả năng này chỉ được công nhận khi nó đáp ứng được 2 điều kiện: thứ nhất dấu hiệu đã và đang được sử dụng với chức năng nhãn hiệu và thứ hai là dấu hiệu được người tiêu dùng biết đến một cách rộng rãi. Đảm bảo 2 điều kiện này thì khả năng này mới được công nhận.
>>> LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.0191
Thứ ba, các dấu hiệu phân biệt khác:
Một nhãn hiệu được coi là có khả năng phân biệt không chỉ dựa vào yếu tố tự phân biệt của nhãn hiệu hay qua sử dụng mà còn dựa vào mức tương tự hay gần giống đối với các nhãn hiệu khác. Với khả năng này pháp luật quy định cụ thể ở từng khía cạnh khác nhau để đánh giá khả năng phân biệt của nhãn hiệu:
– Dấu hiệu không phải là nhãn hiệu liên kết trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu đã được đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự trên cơ sở đơn đăng ký có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn trong trường hợp đơn đăng ký được hưởng quyền ưu tiên, kể cả đơn đăng ký nhãn hiệu được nộp theo điều ước quốc tế mà Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là thành viên;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã được sử dụng và thừa nhận rộng rãi cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự từ trước ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên trong trường hợp đơn được hưởng quyền ưu tiên;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu của người khác đã đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự mà đăng ký nhãn hiệu đó đã chấm dứt hiệu lực chưa quá năm năm, trừ trường hợp hiệu lực bị chấm dứt vì lý do nhãn hiệu không được sử dụng theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 95 của Luật này;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự đến mức gây nhầm lẫn với nhãn hiệu được coi là nổi tiếng của người khác đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ trùng hoặc tương tự với hàng hoá, dịch vụ mang nhãn hiệu nổi tiếng hoặc đăng ký cho hàng hoá, dịch vụ không tương tự, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm ảnh hưởng đến khả năng phân biệt của nhãn hiệu nổi tiếng hoặc việc đăng ký nhãn hiệu nhằm lợi dụng uy tín của nhãn hiệu nổi tiếng;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với tên thương mại đang được sử dụng của người khác, nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về nguồn gốc hàng hoá, dịch vụ;
– Dấu hiệu trùng hoặc tương tự với chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ nếu việc sử dụng dấu hiệu đó có thể làm cho người tiêu dùng hiểu sai lệch về nguồn gốc địa lý của hàng hoá;
– Dấu hiệu trùng với chỉ dẫn địa lý hoặc có chứa chỉ dẫn địa lý hoặc được dịch nghĩa, phiên âm từ chỉ dẫn địa lý đang được bảo hộ cho rượu vang, rượu mạnh nếu dấu hiệu được đăng ký để sử dụng cho rượu vang, rượu mạnh không có nguồn gốc xuất xứ từ khu vực địa lý mang chỉ dẫn địa lý đó;
– Dấu hiệu trùng hoặc không khác biệt đáng kể với kiểu dáng công nghiệp của người khác được bảo hộ trên cơ sở đơn đăng ký kiểu dáng công nghiệp có ngày nộp đơn hoặc ngày ưu tiên sớm hơn so với ngày nộp đơn, ngày ưu tiên của đơn đăng ký nhãn hiệu.
Như vậy, ở góc độ này hay góc độ khác, một nhãn hiệu phải có khả năng phân biệt thì mới đảm bảo được sự cạnh tranh lành mạnh trên thị trường đối với hoạt động kinh doanh.