Tòa án hỗ trợ vấn đề áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài thương mại diễn ra như thế nào?
Tòa án hỗ trợ vấn đề áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời trong luật trọng tài thương mại diễn ra như thế nào?
Có các tranh chấp xảy ra với nội dung phức tạp, mức độ tranh chấp gay gắt… chúng đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời, nhằm bảo vệ quyền lợi cho các đương sự. Do đó, trong quá trình hội đồng trọng tài giải quyết vụ tranh chấp, nếu cảm thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại thì các bên có quyền làm đơn đến Tòa án để yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời thích hợp để bảo vệ tài sản đang bị tranh chấp theo quy định tại Điều 48 Luật trọng tài thương mại 2010 “Các bên tranh chấp có quyền yêu cầu Hội đồng trọng tài, Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời theo quy định của Luật này và các quy định của pháp luật có liên quan, trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác; Việc yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không bị coi là sự bác bỏ thỏa thuận trọng tài hoặc khước từ quyền giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài”. Theo đó, hội đồng trọng tài hoặc Tòa án có quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời khi có một hoặc các bên đương sự yêu cầu, tùy theo sự thỏa thuận giữa các bên.
Cụ thể, những biện pháp khẩn cấp tạm thời thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài được quy định tại Khoản 2 Điều 49, còn các trường hợp áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời khác do Tòa án thực hiện được quy định tại Khoản 1 Điều 53: “Sau khi nộp đơn khởi kiện, nếu quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại hoặc có nguy cơ trực tiếp bị xâm hại, một bên có quyền làm đơn gửi đến Toà án có thẩm quyền yêu cầu áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời”. Các biện pháp khẩn cấp tạm thời mà Tòa án có thẩm quyền thực hiện được quy định tại Điều 102 Bộ Luật tố tụng dân sự 2004 sửa đổi bổ sung 2011. Vì vậy, khi yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời, các bên cần lưu ý để gửi đơn yêu cầu tới đúng cơ quan có thẩm quyền.
Về thẩm quyền, trình tự, thủ tục của Tòa án áp dụng, thay đổi, hủy bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời được quy định tại Điều 53 Luật trọng tài thương mại 2010. Điều này cho thấy pháp luật cũng có sự can thiệp đáng kể bằng sức mạnh của quyền lực nhà nước đối với hoạt động của trọng tài thương mại, giúp cho trọng tài hoạt động có hiệu quả hơn và bảo vệ tốt quyền lợi của các đương sự tham gia vụ kiện.
Ngoài ra, Khoản 3 Điều 49 Luật có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Tòa án áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời quy định tại khoản 2 Điều này mà sau đó lại có đơn yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Hội đồng trọng tài phải từ chối” và Khoản 5 Điều 53 cũng có quy định: “Trong quá trình giải quyết tranh chấp, nếu một trong các bên đã yêu cầu Hội đồng trọng tài áp dụng một hoặc một số biện pháp khẩn cấp tạm thời mà lại có đơn yêu cầu Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án phải từ chối và trả lại đơn yêu cầu, trừ trường hợp yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài”. Theo đó, nguyên tắc của Luật là nếu hội đồng trọng tài đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì Tòa án sẽ từ chối, trừ trường hợp những nội dung không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài. Nếu Tòa án đã áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì hội đồng phải từ chối. Ta có thể thấy Tòa án đóng vai trò hỗ trợ rất lớn trong trường hợp các bên đã có yêu cầu Tòa án áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời hoặc các biện pháp khẩn cấp tạm thời không thuộc thẩm quyền của hội đồng trọng tài.
Như vậy ta có thể thấy Luật đã dự liệu và phân định phạm vi thẩm quyền áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời giữa hội đồng trọng tài và Tòa án nhằm tránh tình trạng xung đột về thẩm quyền, nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc trong mọi trường hợp các bên đều có thể làm đơn yêu cầu áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình.
Việc pháp luật cho phép các bên có quyền yêu cầu hội đồng trọng tài hoặc Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm đảm bảo quyền lợi của mình trong vụ việc giải quyết tranh chấp, khi các bên thấy cần phải bảo vệ tài sản bị tranh chấp trước nguy cơ tẩu tán tài sản hoặc các hành vi khác nhằm giảm giá trị của tài sản tranh chấp. Sự hỗ trợ của Tòa án đối với trọng tài thể hiện rất rõ ở việc Tòa án có thể dùng sức mạnh cưỡng chế nhà nước mà mình có được để áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời, điều mà hôi đồng trọng tài tuy cũng có thể thực hiện nhưng không thể thực hiện triệt để, tốt bằng Nhà nước do không có được do không nhân danh Nhà nước và thực hiện quyền lực Nhà nước. Việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của Tòa án có giá trị pháp lý cao hơn, hiệu quả thi hành tốt hơn việc áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời của hội đồng trọng tài.
>>> LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.0191
Tòa án có thẩm quyền áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là Tòa án nơi có biện pháp khẩn cấp tạm thời cần được áp dụng. Đây là một quy định tiến bộ hơn so với Pháp lệnh trọng tài thương mại 2003. Pháp lệnh có quy định hạn hẹp là: chỉ Tòa án nơi Hội đồng trọng tài thụ lý vụ tranh chấp mới có quyền ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này có thể gây khó khăn cho cả Tòa án và các bên trong quá trình áp dụng quy định này. Ví dụ: khi các bên kiện ra Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam, theo Pháp lệnh trọng tài, nếu muốn áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì chỉ được phép làm đơn yêu cầu Tòa án nhân dân Hà Nội ra lệnh áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời. Điều này chỉ hợp lý và thuận tiện khi cả hai bên đều có trụ sở tại Hà Nội hoặc đối tượng tài sản yêu cầu áo dụng đặt tại Hà Nội. Khi tài sản nằm ở địa bàn khác thì việc yêu cầu Tòa án Hà Nội ra quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời là hoàn toàn không khả thi và hợp lý.
Một điểm khác biệt của Luật 2010 so với Pháp lệnh 2003 là việc Luật quy định Hội đồng trọng tài có quyền áp dụng một số biện pháp khẩn cấp tạm thời để các bên duy trì, khôi phục hiện trạng tranh chấp, tiến hành các biện pháp bảo quản tài sản cần thiết đảm bảo cho việc thi hành phán quyết, bảo quản chứng cứ liên quan hay bảo quản tài sản liên quan đến tranh chấp. Quy định này cho thấy thẩm quyền của Hội đồng trọng tài đã thực sự được mở rộng gần với thẩm quyền của Tòa án. Quy định như vậy là hợp lý vì Hội đồng trọng tài là cơ quan giải quyết tranh chấp, hơn ai hết, họ là những người hiểu rõ nhất nội dung vụ việc, cũng như mức độ, tính cần thiết của các biện pháp cần áp dụng Tuy nhiên, vì Hội đồng trọng tài không phải là cơ quan đại diện cho quyền lực nhà nước mà là do các bên tranh chấp trao cho trên cơ sở pháp luật; hơn nữa việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời có thể làm ảnh hưởng tới quyền lợi của bên bị áp dụng, nên khi ra quyết định, Hội đồng trọng tài phải rất thận trọng.
Như vậy có thể khẳng định, việc Luật trọng tài thương mại 2010 quy định có sự tham gia của Tòa án trong việc hỗ trợ trọng tài thương mại áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời là một quy định hết sức cần thiết và có ý nghĩa. Nó không chỉ đảm bảo cho quá trình giải quyết tranh chấp tại trọng tài có hiệu quả mà còn làm cho phán quyết của trọng tài có tính khả thi, đảm bảo uy tín và hiệu quả của hoạt động trọng tài.