Công ước Paris là gì? Nội dung cơ bản và thành viên của công ước Paris?
Với nền kinh tế ngày càng hội nhập, mở rộng mạng lưới thì những vấn đề liên quan đến kinh tế ngày càng diễn ra thường xuyên và quy mô hơn. Đặc biệt là trong lĩnh vực bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ. Đây là những quyền xuất phát từ trí tuệ của con người chính vì vậy rất khó để có thể bảo vệ được tối ưu các quyền liên quan.
LVN Group tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.0191
1. Công ước Paris là gì?
Công ước Paris là văn bản quy định về bảo hộ sở hữu công nghiệp với tên gọi tiếng anh là Paris Convention for the Protection of Industrial Property, tên gọi tắc là Công ước Paris. Hiệp định này được ký kết tại Paris vào năm 1883, sau đó đã được sửa đổi để phù hợp với tình hình và nhu cầu thực tế của các nước thành viên. Theo đó đã được sửa đổi vào năm 1900 tại Brussels. Và tất cả đều được kết thúc bằng việc thông qua bằng một văn kiện sửa đổi của Công ước Paris.
Công ước Paris được dịch sang tiếng anh như sau: Paris Convention
2. Nội dung cơ bản và thành viên của công ước Paris:
Thứ nhất, các nội dung cơ bản của Công ước Paris
Một, đối xử quốc gia đối với công dân các nước thành viên Liên Minh
– Trong lĩnh vực bảo hộ sở hữu công nghiệp, công dân của bất kỳ nước thành viên nào cũng đều được hưởng các điều kiện thuận lợi như công dân của tất cả các nước thành viên khác mà luật tương ứng của các nước đó quy định hoặc sẽ quy định mà; hoàn toàn không ảnh hưởng đến các quyền được quy định riêng trong Công ước này. Do đó, họ được hưởng sự bảo hộ và công cụ bảo vệ pháp luật chống mọi hành vi xâm phạm quyền của mình như những công dân của nước thành viên khác, miễn là tuân thủ các điều kiện và thủ tục quy định đối với công dân nước đó.
– Tuy nhiên, không thể đặt ra cho công dân của các nước thành viên của Liên minh bất cứ điều kiện nào về việc cư trú hoặc việc đặt trụ sở tại nước được yêu cầu bảo hộ để được hưởng bất kỳ quyền sở hữu công nghiệp nào.
– Các quy định liên quan đến các đòi hỏi về thủ tục xét xử và thủ tục hành chính, thẩm quyền xét xử, việc lựa chọn địa chỉ giao dịch hoặc chỉ định người đại diện nếu có trong luật về sở hữu công nghiệp của mỗi nước thành viên được bảo lưu tuyệt đối.
Ngoài ra, tại Điều 3 của Hiệp định cũng quy định trường hợp đối với công dân của các quốc gia khác không phải là thành viên Liên minh nhưng định cư hoặc có cơ sở thương mại hoặc công nghiệp thực sự và có hiệu quả trên lãnh thổ của một trong những nước thành viên của Liên minh sẽ được đối xử theo cùng một chế độ như công dân của các nước thành viên của Liên minh.
Hai, quyền ưu tiên được quy định trong Công ước Paris
– Bất kỳ người nào đã nộp đơn hợp lệ xin cấp patent hoặc xin đăng ký mẫu hữu ích, kiểu dáng công nghiệp hoặc nhãn hiệu hàng hoá tại một trong các nước thành viên của Liên minh, hoặc người thừa kế hợp pháp của người đó, trong quá trình nộp đơn ở các nước khác sẽ được hưởng quyền ưu tiên trong thời hạn ấn định dưới đây.
– Mọi đơn tương đương với đơn quốc gia hợp lệ theo luật quốc gia của bất kỳ nước thành viên của Liên minh hoặc theo các hiệp ước song phương hoặc đa phương ký kết giữa các nước thành viên của Liên minh đều được coi là đơn phát sinh quyền ưu tiên.
– Đơn quốc gia hợp lệ là bất cứ đơn nào đủ để xác nhận ngày đơn đó được nộp tại quốc gia liên quan, bất kể số phận của đơn đó sau này sẽ ra sao.
Do đó, việc nộp đơn sau đó tại bất kỳ nước thành viên nào khác trước khi kết thúc thời hạn nói trên đều không bị coi là vô hiệu bởi bất kỳ hành động nào được thực hiện trong khoảng thời gian đó, chẳng hạn bởi một đơn khác, bởi việc công bố hoặc khai thác sáng chế, bởi việc đưa ra thị trường các sản phẩm dập khuôn kiểu dáng, hoặc việc sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, và những hành động đó không phát sinh bất kỳ quyền nào cho người thứ ba hoặc bất kỳ quyền sở hữu cá nhân nào. Mọi quyền mà bên thứ ba đạt được trước ngày nộp đơn đầu tiên – đơn là cơ sở cho quyền ưu tiên – vẫn được duy trì theo luật quốc gia của mỗi nước thành viên của Liên minh.
– Thời hạn nói trên là 12 tháng đối với sáng chế và mẫu hữu ích, 6 tháng đối với kiểu dáng công nghiệp và nhãn hiệu hàng hoá.
– Thời hạn nói trên bắt đầu từ ngày nộp đơn đầu tiên; ngày nộp đơn đầu tiên không tính trong thời hạn.
– Nếu ngày cuối cùng của thời hạn là ngày lễ chính thức hoặc ngày Cơ quan sở hữu công nghiệp không nhận đơn tại nước có yêu cầu bảo hộ, thời hạn sẽ được kéo dài tới ngày làm việc đầu tiên tiếp theo đó.
– Đơn nộp sau hiểu theo nghĩa ở khoản (2) trên đây đề cập đến cùng một đối tượng như trong đơn đầu tiên nộp tại chính nước thành viên đó của Liên minh sẽ được coi là đơn đầu tiên, và ngày nộp đơn đó sẽ là thời điểm mốc để tính thời hạn ưu tiên, nếu tại thời điểm nộp đơn sau, đơn nộp trước nói trên đã được rút bỏ, không được xem xét tiếp hoặc bị từ chối nhưng chưa đưa ra xét nghiệm công chúng và không để lại bất kỳ quyền nào chưa giải quyết, và nếu chưa phải là cơ sở để xin hưởng quyền ưu tiên. Lúc đó, đơn nộp trước sẽ không được dùng làm cơ sở để xin hưởng quyền ưu tiên nữa.
– Bất kỳ ai muốn hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn nộp trước sẽ phải khai rõ ngày nộp và nước nhận đơn đó. Mỗi nước phải ấn định ngày muộn nhất phải khai các dữ liệu đó.
– Các dữ kiện nói trên phải được công bố trong các tài liệu của cơ quan có thẩm quyền, cụ thể là trong patent và các bản mô tả liên quan.
– Các nước thành viên của Liên minh có thể yêu cầu bất kỳ người khai nào nói trên phải nộp bản sao (bản mô tả, bản vẽ v.v…) của đơn nộp trước. Bản sao – được cơ quan có thẩm quyền đã nhận đơn đó xác nhận – không đòi hỏi bất kỳ sự xác nhận nào khác, và trong mọi trường hợp đều có thể nộp miễn phí tại bất kỳ thời điểm nào trong vòng 3 tháng kể từ ngày nộp đơn nộp sau. Các nước thành viên có thể yêu cầu bản sao phải được nộp kèm theo giấy xác nhận ngày nộp đơn đó do chính cơ quan có thẩm quyền nói trên cấp, và kèm theo bản dịch.
– Không được đưa ra bất kỳ yêu cầu nào khác tại thời điểm nộp đơn về hình thức đối với bản khai về quyền ưu tiên. Mỗi nước thành viên của Liên minh phải ấn định hậu quả của việc không thoả mãn các yêu cầu về hình thức quy định trong Điều này, nhưng hậu quả đó trong bất kỳ trường hợp nào cũng không được vượt quá mức mất quyền ưu tiên.
– Sau đó, có thể yêu cầu nộp thêm bằng chứng. Bất kỳ người nào xin hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn nộp trước đều phải chỉ ra số đơn đó; số đơn này phải được công bố như quy định tại khoản (2) trên đây.
– Nếu một đơn kiểu dáng công nghiệp nộp tại một nước với yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở một đơn mẫu hữu ích, thời hạn quyền ưu tiên sẽ là thời hạn ấn định cho kiểu dáng công nghiệp.
– Ngoài ra, có thể cho phép nộp một đơn mẫu hữu ích tại một nước với yêu cầu hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở một đơn sáng chế, và ngược lại.
– Không một nước thành viên nào của Liên minh được từ chối quyền ưu tiên hoặc từ chối một đơn sáng chế vì lý do người nộp đơn yêu cầu hưởng quyền ưu tiên phức hợp, thậm chí cả khi các quyền ưu tiên bắt nguồn từ nhiều nước khác nhau, hoặc vì lý do đơn có yêu cầu hưởng một hoặc nhiều quyền ưu tiên có chứa một hoặc nhiều yếu tố không nằm trong đơn hoặc các đơn là cơ sở yêu cầu hưởng quyền ưu tiên, với điều kiện là, trong cả hai trường hợp đó đơn phải thoả mãn tính thống nhất của sáng chế theo quy định của luật quốc gia.
Với những yếu tố không nằm trong đơn hoặc các đơn là cơ sở yêu cầu hưởng quyền ưu tiên, việc nộp đơn sau làm phát sinh quyền ưu tiên theo những điều kiện thông thường.
– Nếu kết quả xét nghiệm khẳng định rằng đơn sáng chế bao gồm nhiều sáng chế, người nộp đơn có thể tách đơn thành một số lượng nhất định các đơn riêng và giữ ngày nộp đơn ban đầu làm ngày nộp đơn của mỗi đơn đó và giữ nguyên quyền ưu tiên, nếu có.
– Người nộp đơn cũng có thể tự mình chủ động tách đơn sáng chế và giữ ngày nộp đơn ban đầu làm ngày nộp đơn của mỗi đơn mới tách và giữ nguyên quyền ưu tiên, nếu có. Mỗi nước thành viên của Liên minh có quyền xác định các điều kiện cho phép tách đơn như vậy.
– Quyền ưu tiên không thể bị từ chối với lý do là một số yếu tố của sáng chế có yêu cầu hưởng quyền ưu tiên không xuất hiện trong số các yêu cầu bảo hộ của đơn nộp ở nước xuất xứ, với điều kiện là toàn bộ các tài liệu của đơn đó bộc lộ rõ các yếu tố như vậy.
– Đơn xin cấp bằng tác giả sáng chế nộp tại nước mà người nộp đơn có quyền tự lựa chọn giữa đơn xin cấp patent và đơn xin cấp bằng tác giả sáng chế sẽ phát sinh quyền ưu tiên như quy định trong Điều này, với những điều kiện và hậu quả giống như đơn xin cấp patent.
– Tại nước mà người nộp đơn có quyền tự lựa chọn giữa việc xin cấp patent và việc xin cấp bằng tác giả sáng chế, người nộp đơn xin cấp bằng tác giả sáng chế sẽ được hưởng quyền ưu tiên trên cơ sở đơn xin cấp patent, đơn mẫu hữu ích hoặc đơn xin cấp bằng tác giả sáng chế, theo những quy định của Điều này liên quan đến đơn xin cấp patent.
Ngoài hai nội dung cơ bản được quy định trong Công ước trên thì còn có các nội dung khác như thiết lập quyền và nghĩa vụ của các cá nhân và pháp nhân; thực thi Công ước, chế tài giải quyết tranh chấp…
Như vậy, chúng ta có thể thấy Công ước Paris năm 1883 đã nền tảng cho sự ra đời của nhiều điều ước quốc tế khác. Những điều ước này đã mang lại nhiều hiệu quả vô cùng tích cực cho sự văn minh và cạnh tranh lành mạnh của các quốc gia. Điều này đã rất phù hợp với mục đích ban đầu của Công ước này là thành một liên minh quốc tế về bảo hộ sở hữu công nghiệp, xây dựng các quy định khung có lợi cho việc đăng ký bảo hộ sở hữu công nghiệp cho các đối tượng thuộc quyền sở hữu trí tuệ của công dân nước này đối với công dân nước khác thuộc thành viên công ước.
Thứ hai, các thành viên của Công ước Paris
Từ thời điểm ký kết đến nay, công ước Paris đã trải qua nhiều lần sửa đổi tại các hội nghị quốc tế như hội nghị Brussels, Bỉ, Mỹ, Lahay, Hà Lan…và việc này đã kéo theo nhiều quốc gia có cơ hội được tham gia trở thành thành viên của Công ước. Tính đến ngày 15/01/2002 thì có 162 nước là thành viên của Công ước Paris, cụ thể: Albania, Algeria, Antigua và Barbuda, Achentina, Armenia, úc, áo, Azerbaijan Bahamas, Bahrain, Bangladesh, Barbados, Belarus, Bỉ, Belize, Bênanh, Butan, Bolivia, Bosnia-Herzegovina, Botswana, Brazil, Bulgaria, Burkina Faso, Burundi, Campuchia, Camerun, Canada, Cộng hoà Trung phi, Chad, Chile, Trung quốc, Colombia, Congo, Costa Rica, Bờ Biển Ngà, Croatia, Cuba, Síp, Séc, Cộng hoà dân chủ nhân dân Triều Tiên, Côngô, Đan Mạch, Dominica, Cộng hoà Dominica, Ecuador, Ai Cập, El Salvador, Ghinê xích đạo, Estonia, Phần lan, Pháp, Gabon, Gambia, Grudia, Đức, Ghana, Hylạp, Grenada, Guatemala, Ghinê, Ghinê Biso, Guyana, Haiti, Holy See, Honduras, Hungary, Aixơlen, ấn Độ, Indonesia, Iran, Iraq, Ailen, Israel, Italy, Jamaica, Nhật Bản, Jordan, Kazakhstan, Kenya, Kyrgyzstan, Lào, Latvia, Libăng, Lesotho, Liberia, Libi, Liechtenstein, Litva, Luxembourg, Madagascar, Malawi, Malaysia, Mali, Malta, Mauritania, Mauritius, Mexico, Monaco, Mông Cổ, Maroc, Mozambic, Nepal, Hà Lan, New Zealand, Nicaragua, Niger, Nigeria, Nauy, Oman, Panama, Papua New Guinea, Paraguay, Peru, Philippines, Balan, Bồ Đào Nha, Qatar, Hàn Quốc, Moldova, Rumani, Liên bang Nga, Ruanda, Saint Kitts and Nevis, Saint Lucia, Saint Vincent và Grenadines, San Marino, Sao Tome và Principe, Senegal, Sierra Leone, Singapore, Slovakia, Slovenia, Nam Phi, Tây Ban Nha, Sri Lanka, Sudan, Suriname, Swazilan, Thuỵ Điển, Thuỵ Sĩ, Xyri, Tajikistan, Nam tư cũ, Macedonia, Togo, Tonga, Trinidad và Tobago, Tunisia, Thổ Nhĩ Kỳ, Turkmenistan, Uganda, Ukraine, Các tiểu Vương quốc ả Rập thống nhất, Anh , Tanzania, Hoa Kỳ, Uruguay, Uzbekistan, Venezuela, Việt Nam, Nam Tư, Zambia, Zimbabuê.
Như vậy, với việc sửa đổi, bổ sung nhiều lần thì những quy định của Công ước Paris đã tạo điều kiện cho nhiều quốc gia cùng nhau tham gia và không ngừng gia tăng cho đến thời điểm hiện tại. Và xoay quanh Công ước Paris sẽ quy định các nội dung chính về Nguyên tắc đối xử quốc gia, quyền ưu tiên, một số nguyên tắc chung đối với hệ thống bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp mà các nước thành viên phải tuân thủ và các quy định về hành chính phục vụ cho việc thi hành Công ước.