Đất tôn giáo là gì? Phân biệt giữa đất cơ sở tôn giáo với đất tín ngưỡng?

Đất tôn giáo là gì? Phân biệt giữa đất cơ sở và tôn giáo với đất tín ngưỡng? So sánh sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo? Vai trò của tôn giáo đối với cuộc sống?

Hiện nay, khi nhu cầu tín ngưỡng, tôn giáo của con người này càng được quan tâm và phổ biến thì việc quy định những quy phạm pháp luật lại có vai trò quan trọng hơn. Nhiều ngôi chùa, đền, miếu… được xây dựng trên khắp cả nước và chắc hẳn nhiều người cũng nghe và thắc mắc đến đất tôn giáo là gì? Hy vọng bài viết dưới đây sẽ giúp bạn đọc hiểu hơn về đất tôn giáo là gì? Phân biệt giữa đất cơ sở tôn giáo và đất tín ngưỡng?

Căn cứ pháp lý:

  • Luật đất đai 2013;
  • Luật tín ngưỡng, tôn giáo 2016.

LVN Group tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.0191

1. Đất tôn giáo là gì?

Tôn giáo là một tín ngưỡng mà ở bất kỳ quốc gia nào hầu như cũng có, và việc theo tín ngưỡng, tôn giáo nào sẽ tùy thuộc vào quy định của mỗi quốc gia khác nhau. Và tại Việt Nam việc theo tôn giáo, tín ngưỡng nào sẽ phụ thuộc vào ý chí của người dân và nhà nước không hề ngăn cấm. Tuy nhiên, việc hoạt động tín ngưỡng sẽ tuân theo khuôn khổ của pháp luật tránh tình trạng lợi dụng tín ngưỡng, tốn giáo để tuyên truyền những thông tin sai lệch gây ảnh hưởng đến quốc gia. Và để hoạt động được tín ngưỡng thì nhà nước ta cũng quy định về việc giao, cho thuê hay cấp đất để xây dựng các cơ sở tín ngưỡng phục vụ cho nhu cầu của người dân.

Theo đó, đất tôn giáo được hiểu là đất được sử dụng với mục đích để xây dựng chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.

2. Phân biệt giữa đất cơ sở và tôn giáo với đất tín ngưỡng:

Đất tôn giáo và đất tín ngưỡng nhìn chung đều phục vụ cho mục đích thờ cúng, đều tin vào những thứ tâm linh, tin vào những điều mà tôn giáo và các loại hình tín ngưỡng truyền dạy, mặc dù không nhìn thấy được, không có một vật hiện hữu nào thể hiện rõ ràng như bằng xương, thịt hay nghe thấy chính giọng nói của các đấng linh thiêng đó. Tuy nhiên, điểm khác nhau của hai loại đất này được pháp luật quy định cụ thể như sau:

Thứ nhất, đất cơ sở tôn giáo

  • Đất cơ sở tôn giáo gồm đất thuộc chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo được Nhà nước cho phép hoạt động.
  • Ủy ban nhân dân cấp tỉnh căn cứ vào chính sách tôn giáo của Nhà nước, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt quyết định diện tích đất giao cho cơ sở tôn giáo.

Thứ hai, đất tín ngưỡng

  • Đất tín ngưỡng bao gồm đất có công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ.
  • Việc sử dụng đất tín ngưỡng phải đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất, quy hoạch xây dựng đô thị, quy hoạch xây dựng điểm dân cư nông thôn đã được cơ quan nhà nước có thẩm quyền phê duyệt.
  • Việc xây dựng, mở rộng các công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ của cộng đồng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

Như vậy, đất tôn giáo được sử dụng cho mục đích xây dựng chùa, nhà thờ, nhà nguyện, thánh thất, thánh đường, niệm phật đường, tu viện, trường đào tạo riêng của tôn giáo, trụ sở của tổ chức tôn giáo, các cơ sở khác của tôn giáo nhưng được Nhà nước cho phép xây dựng và hoạt động. Thẩm quyền quản lý thuộc về Ủy ban nhân dân cấp Tỉnh, việc ban hành các chính sách tôn giáo, quy hoạch, kế hoạch sử dụng đất đều sẽ do cấp tỉnh phê duyệt diện tịch đất giao cho hoạt động xây dựng cơ sở tôn giáo.

Còn đất tín ngưỡng mục đích chủ yếu mang tính cá nhân, độc lập hơn vì mục đích phục vụ cho việt cúng viếng, thờ đình, miếu, am, từ đường hay nhà thờ họ chúng ta thường hay thấy. Việc xây dựng này không thuộc thẩm quyền cụ thể của cấp cơ quan nào. Việc xây dựng phải đúng mục đích, phù hợp với quy hoạch, kế hoạch sử dụng của từng địa phương, phù hợp với chính sách quy hoạch của từng vùng. Tất cả việc xây dựng mở rộng các công trình đình, đền, miếu, am, từ đường, nhà thờ họ của cộng đồng phải được phép của cơ quan nhà nước có thẩm quyền.

3. So sánh sự giống và khác nhau giữa tín ngưỡng và tôn giáo:

Thứ nhất, giống nhau

Những người theo tôn giáo sẽ có những tín ngưỡng phù hợp với từng loại tôn giáo và sinh hoạt tín ngưỡng khác nhau. Nhưng nhìn chung họ đều tin vào những thứ mang tính tâm linh và không hề nhìn thấy những đó hay sờ được. Những người theo tôn giáo hay tín ngưỡng đều tin vào những đều mà cho rằng mắt thường không thấy được, việc tin tưởng và thờ cúng này đa phần đều có tác dụng điều chỉnh hành vi ứng xử giữa các cá thể với nhau, giữa cá thể với xã hội, với cộng đồng, giải quyết tốt các mối quan hệ trong gia đình dựa trên cơ sở giáo lý tôn giáo và noi theo tấm gương sáng của những đấng bậc được tôn thờ trong các tôn giáo, các loại hình tín ngưỡng đó.

Việc thờ cúng này đều được thể hiện qua việc thờ, cúng viếng những mô hình tượng tạc, hay tranh ảnh của các vị đấng linh thiêng họ tin tưởng. Việc thờ cúng được thực hiện hằng tháng, dịp lễ hay sự kiện nào đó quan trọng.

Thứ hai, khác nhau

Một, tôn giáo được cấu thành dựa trên 4 yếu tố như giáo giáo chủ, giáo lý, giáo luật và tín đồ, thì các loại hình tín ngưỡng dân gian không có 4 yếu tố đó.

Giáo chủ ở đây được hiểu là người sáng lập ra tôn giáo ấy (ví dụ như Thích ca Mâu ni sáng lập ra đạo Phật, đức chúa Giê su sáng lập ra đạo Công giáo, nhà tiên tri Mô ha mét sáng lập ra đạo Hồi,…);

  • Giáo lý và giáo luật là những lời dạy của đức giáo chủ đối với tín đồ hoặc được thể hiện qua kinh thánh, văn bản, giáo điều được gọi là giáo luật; Những giáo luật này thường mang những nội dung giáo dục con người, làm theo lẽ phải, sống lương thiện…nhưng không được trái với quy định của pháp luật, những giáo luật là những điều luật do giáo hội soạn thảo và ban hành để duy trì nếp sống đạo trong tôn giáo đó; tín đồ là những người tự nguyện theo tôn giáo đó.

Hai là, việc một người chỉ tham gia một tôn giáo duy nhất không bị quy định theo pháp luật tuy nhiên, đây được xem là một điều kiện bắt buộc đối với mỗi người. Đã tha gia một đọa nào đó thì sẽ không thể tham gia đạo khác mà chỉ có thể tham gia tín ngưỡng hoặc nhiều tín ngưỡng khác nhau. Chẳng hạn, người phụ nữ vừa có tín ngưỡng thờ cụ kỵ tổ tiên, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng, bà ấy còn ra đình lễ Thánh. Cũng tương tự như vậy, một người đàn bà vừa có tín ngưỡng thờ ông bà cha mẹ, nhưng ngày mùng Một và Rằm âm lịch hàng tháng còn ra miếu, ra chùa làm lễ Mẫu,…

Ba là, mỗi tôn giáo đều sẽ có những hệ thống kinh điển đầy đủ, đồ sộ thì các loại hình tín ngưỡng chỉ có một số bài văn tế, bài khấn. Hệ thống kinh điển của tôn giáo được chia theo từng loại như phật giáo thì có những bộ kinh, luật, luận rất đồ sộ của Phật giáo; là bộ “Kinh thánh” và “Giáo luật” của đạo Công giáo; là bộ kinh “Qur’an” của Hồi giáo,… Còn các cuốn “Gia phả” của các dòng họ và những bài hát chầu văn mà những người cung văn hát trong các miếu thờ Mẫu không phải là kinh điển.

Bốn là, chúng ta thường hay thấy mỗi một tôn giáo sẽ có những giáo sĩ hay nhà sư hành đạo chuyên nghiệp, họ được đào tạo thậm chí có thể đào tạo theo chương trình và theo nghề suốt đời, đồng thời có thể ảnh hưởng đến các thế hệ sau này. Tuy nhiên, trong các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian không có ai làm việc này một cách chuyên nghiệp cả. Các tăng sĩ Phật giáo và các giáo sĩ đạo Công giáo đề là những người làm việc chuyên nghiệp và hành đạo suốt đời (có thể có một vài ngoại lệ, nhưng số này chiếm tỷ lệ rất ít). Còn lại nhiều người chỉ thực hiện công việc khi có dịp, phần lớn thời gian còn lại họ sẽ trở về nhà làm những công việc khác, và như vậy không phải là người làm việc thờ Thánh chuyên nghiệp.

4. Vai trò của tôn giáo đối với cuộc sống:

Từ lâu, tôn giáo đã xuất hiện và dần dần trở thành một phần không thể thiếu đối với cuộc sống hằng ngày của người dân. Tôn giáo luôn hiện hữu trong đời sống xã hội nhân loại từ rất lâu đời và cũng rất đa dạng về hình thức tôn thờ. Nhiều tôn giáo được du nhập vào nước ta đã tạo ra đời sống tinh thần của người dân ngày càng phong phú và đa dạng hơn. Giá trị của tốn giáo mang lại là những gì đang hiện hữu mà không có bất kỳ ai có thể phủ nhận được. Tôn giáo luôn có vai trò tích cực trong việc mang lại hạnh phúc, an lạc, niềm tin, sự bình yên trong tâm hồn của mỗi người. Góp phần phục hồi các giá trị đạo đức và hoàn thiện hóa con người. Nhờ có niềm tin này mà con người đang dần trở nên thiện lương, biết cân nhắc hành vi, giúp con người luôn sống hoàn lương, cố gắng sống tốt hơn, tích cực làm điều thiện nhiều hơn và không dám làm việc bất chánh cho dù hoàn cảnh cho phép. Từ đó đã giúp cho tỷ lệ tội phạm được giảm đi, đời sống con người lại càng được bình yên hơn, khi mỗi người cho rằng làm điều ác nhất định sẽ bị quả báo, không có được sống bình yên. Đồng thời còn tạo niềm tin cho người dân tin tưởng vào chính quyền vào Đảng và Nhà nước.

Thế nhưng, đã có lúc tôn giáo bị con người lợi dụng cho những mục đích bất chánh để thỏa mãn tham dục nên đã gây ra biết bao đau khổ cho con người và dẫn dắt con người vào đường mê tín dị đoan, vì thế tôn giáo từng bị chỉ trích là thuốc phiện ru ngủ, mê hoặc con người. Chính vì vậy, nhà nước ta đã tạo điều kiện cho mỗi người có quyền được hoạt động tôn giáo nhưng không được lợi dụng sự tin tưởng của giáo đường mà có những hành vi sai lệch gây ảnh hưởng đến niềm tin của nhân dân.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com