Di sản thừa kế không có người thừa kế thì được xử lý như thế nào? Người chết không có người thừa kế tài sản thì tài sản đó có thuộc về Nhà nước không?
Theo quy định của pháp luật hiện hành, bên cạnh các quyền của chủ sở hữu như quyền sử dụng, quyền chiếm hữu, định đoạt đối với tài sản của mình thì cá nhân còn có thể thực hiện nguyện vọng chuyển giao tài sản cho người khác sau khi chết thông qua việc lập di chúc. Bên cạnh đó pháp luật cũng ghi nhận quyền nhận di sản thừa kế của cá nhân qua di chúc hoặc theo pháp luật. Tuy nhiên, thực tế vẫn phát sinh những trường hợp người chết có để lại di sản thừa kế nhưng họ lại không có người thừa kế để nhận di sản. Vậy pháp luật quy định như thế nào về những trường hợp này?
1. Quy định của pháp luật về những hình thức nhận di sản thừa kế
Theo quy định của Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế có thể nhận di sản thừa kế từ người chết để lại thông qua hai hình thức sau đây:
1.1. Nhận di sản thừa kế theo di chúc
Theo quy định của pháp luật, người lập di chúc có thể là người thành niên còn minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép hoặc người chưa thành niên từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi. Tuy nhiên đối với đối tượng người lập di chúc là người chưa thành niên thì phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
Khi lập di chúc, người lập di chúc có quyền:
– Chỉ định người thừa kế; truất quyền hưởng di sản của người thừa kế.
– Phân định phần di sản cho từng người thừa kế.
– Dành một phần tài sản trong khối di sản để di tặng, thờ cúng.
– Giao nghĩa vụ cho người thừa kế.
– Chỉ định người giữ di chúc, người quản lý di sản, người phân chia di sản.
Để được hưởng di sản theo di chúc thì di chúc được lập phải hợp pháp theo các điều kiện quy định tại Điều 630 Bộ luật dân sự năm 2015 như sau:
Thứ nhất, về người lập di chúc phải minh mẫn, sáng suốt trong khi lập di chúc; không bị lừa dối, đe doạ, cưỡng ép.
Lưu ý:
– Di chúc của người từ đủ mười lăm tuổi đến chưa đủ mười tám tuổi phải được lập thành văn bản và phải được cha, mẹ hoặc người giám hộ đồng ý về việc lập di chúc.
– Di chúc của người bị hạn chế về thể chất hoặc của người không biết chữ phải được người làm chứng lập thành văn bản và có công chứng hoặc chứng thực.
Thứ hai, nội dung của di chúc không vi phạm điều cấm của luật, không trái đạo đức xã hội; hình thức di chúc không trái quy định của luật.
Thứ ba, di chúc miệng được coi là hợp pháp nếu người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng của mình trước mặt ít nhất hai người làm chứng và ngay sau khi người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng, người làm chứng ghi chép lại, cùng ký tên hoặc điểm chỉ. Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày người di chúc miệng thể hiện ý chí cuối cùng thì di chúc phải được công chứng viên hoặc cơ quan có thẩm quyền chứng thực xác nhận chữ ký hoặc điểm chỉ của người làm chứng.
Về hiệu lực của di chúc, theo quy định tại Điều 643 Bộ luật dân sự năm 2015, di chúc có hiệu lực từ thời điểm mở thừa kế. Di chúc không có hiệu lực toàn bộ hoặc một phần trong trường hợp sau đây:
– Người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc;
– Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp có nhiều người thừa kế theo di chúc mà có người chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc, một trong nhiều cơ quan, tổ chức được chỉ định hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế thì chỉ phần di chúc có liên quan đến cá nhân, cơ quan, tổ chức này không có hiệu lực.
Lưu ý:
– Di chúc không có hiệu lực, nếu di sản để lại cho người thừa kế không còn vào thời điểm mở thừa kế; nếu di sản để lại cho người thừa kế chỉ còn một phần thì phần di chúc về phần di sản còn lại vẫn có hiệu lực.
– Khi di chúc có phần không hợp pháp mà không ảnh hưởng đến hiệu lực của các phần còn lại thì chỉ phần đó không có hiệu lực.
– Khi một người để lại nhiều bản di chúc đối với một tài sản thì chỉ bản di chúc sau cùng có hiệu lực.
1.2. Nhận di sản thừa kế theo pháp luật
Theo quy định tại Điều 650 Bộ luật dân sự năm 2015, thừa kế theo áp dụng chỉ được áp dụng trong những trường hợp sau đây:
– Trường hợp không có di chúc hoặc di chúc không hợp pháp;
– Những người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; cơ quan, tổ chức được hưởng thừa kế theo di chúc không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế;
– Những người được chỉ định làm người thừa kế theo di chúc mà không có quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
Lưu ý:
Thừa kế theo pháp luật cũng được áp dụng đối với các phần di sản sau đây:
– Phần di sản không được định đoạt trong di chúc;
– Phần di sản có liên quan đến phần của di chúc không có hiệu lực pháp luật;
– Phần di sản có liên quan đến người được thừa kế theo di chúc nhưng họ không có quyền hưởng di sản, từ chối nhận di sản, chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc; liên quan đến cơ quan, tổ chức được hưởng di sản theo di chúc, nhưng không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Về nguyên tắc, việc nhận di sản thừa kế theo pháp luật được thực hiện như sau:
– Những người thừa kế cùng hàng được hưởng phần di sản bằng nhau.
– Những người ở hàng thừa kế sau chỉ được hưởng thừa kế, nếu không còn ai ở hàng thừa kế trước do đã chết, không có quyền hưởng di sản, bị truất quyền hưởng di sản hoặc từ chối nhận di sản.
– Trường hợp con của người để lại di sản chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì cháu được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của cháu được hưởng nếu còn sống; nếu cháu cũng chết trước hoặc cùng một thời điểm với người để lại di sản thì chắt được hưởng phần di sản mà cha hoặc mẹ của chắt được hưởng nếu còn sống.
2. Những trường hợp di sản không có người thừa kế
Theo quy định tại Điều 613 Bộ luật dân sự năm 2015 người thừa kế phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
– Trường hợp người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết.
– Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Theo quy định tại Điều 622 Bộ luật dân sự năm 2015, di sản được xác định là không có người thừa kế trong các trường hợp sau:
Trường hợp thứ nhất: Không có người thừa kế theo di chúc
Những trường hợp không có người hưởng di sản theo di chúc gồm:
– Thứ nhất, người để lại di sản không lập di chúc hoặc di chúc không hợp pháp
– Thứ hai, người thừa kế theo di chúc chết trước hoặc chết cùng thời điểm với người lập di chúc. Cơ quan, tổ chức được chỉ định là người thừa kế không còn tồn tại vào thời điểm mở thừa kế.
Trường hợp thứ hai: Không có người thừa kế theo pháp luật
Theo quy định tại Khoản 1 Điều 651, người thừa kế theo pháp luật được quy định theo thứ tự như sau:
– Hàng thừa kế thứ nhất gồm: vợ, chồng, cha đẻ, mẹ đẻ, cha nuôi, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi của người chết;
– Hàng thừa kế thứ hai gồm: ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại, anh ruột, chị ruột, em ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là ông nội, bà nội, ông ngoại, bà ngoại;
– Hàng thừa kế thứ ba gồm: cụ nội, cụ ngoại của người chết; bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột của người chết; cháu ruột của người chết mà người chết là bác ruột, chú ruột, cậu ruột, cô ruột, dì ruột; chắt ruột của người chết mà người chết là cụ nội, cụ ngoại.
Như vậy, trong trường hợp di sản thừa kế sẽ không được chia theo pháp luật nếu không có người thừa kế theo quy định trên.
Trường hợp thứ ba: Người thừa kế từ chối nhận di sản
Theo quy định tại Điều 620 Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế có quyền từ chối nhận di sản, trừ trường hợp việc từ chối nhằm trốn tránh việc thực hiện nghĩa vụ tài sản của mình đối với người khác.
Việc từ chối nhận di sản phải được lập thành văn bản và gửi đến người quản lý di sản, những người thừa kế khác, người được giao nhiệm vụ phân chia di sản để biết.
Việc từ chối nhận di sản phải được thể hiện trước thời điểm phân chia di sản.
Trường hợp thứ tư: Người thừa kế không được quyền hưởng
Theo quy định tại Điều 621 Bộ luật dân sự năm 2015, người thừa kế không được quyền hưởng di sản khi thuộc các trường hợp sau đây:
– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng, sức khỏe hoặc về hành vi ngược đãi nghiêm trọng, hành hạ người để lại di sản, xâm phạm nghiêm trọng danh dự, nhân phẩm của người đó;
– Người vi phạm nghiêm trọng nghĩa vụ nuôi dưỡng người để lại di sản;
– Người bị kết án về hành vi cố ý xâm phạm tính mạng người thừa kế khác nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ phần di sản mà người thừa kế đó có quyền hưởng;
– Người có hành vi lừa dối, cưỡng ép hoặc ngăn cản người để lại di sản trong việc lập di chúc; giả mạo di chúc, sửa chữa di chúc, hủy di chúc, che giấu di chúc nhằm hưởng một phần hoặc toàn bộ di sản trái với ý chí của người để lại di sản.
3. Quy định về xử lý di sản trong trường hợp không có người thừa kế
Như ở trên đã đề cập, đối với những trường hợp người chết có để lại di sản thừa kế. Tuy nhiên sau khi xác định không có người thừa kế để nhận di sản theo di chúc, nhận di sản theo pháp luật hoặc có người thừa kế nhưng lại nằm trong những trường hợp họ từ chối không nhận di sản, hoặc không được quyền hưởng di sản theo quy định thì việc xử lý những di sản này được thực hiện theo quy định tại Điều 622 Bộ luật dân sự năm 2015, cụ thể như sau:
Những di sản thừa kế không có người thừa kế sau khi được xác định để thực hiện các nghĩa vụ về tài sản, phần còn lại sẽ thuộc về Nhà nước.