Đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng? Hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng?
Hiện nay như chúng ta đã biết, hoạt động chào bán chứng khoán đã rất phổ biến trên thị trường chứng khoán Việt Nam, nó đóng vai trò thúc đẩy kinh tế, tạo ra các giá trị kinh tế và huy động vốn cho doanh nghiệp. Hiện nay đối với việc chào bán chứng khoán ra công chúng hải thực hiện tuân thủ các quy định của pháp luật như điều kiện chào bán chứng khoán ra công chúng, trình tự thủ tục chào bán chứng khoán ra công chúng… Nếu không đáp ứng đủ các yêu cầu và điều kiện sẽ dẫn tới việc chào bán chứng khoán ra công chúng có thể bị đình chỉ hoặc hủy bỏ theo quy định. Vậy cụ thể đình chỉ, hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng được thực hiện trong những trường hợp nào? Dưới đây công ty Luật LVN Group chúng tôi xin cung cấp các thông tin chi tiết về nội dung này.
Cơ sở pháp lý: Luật chứng khoán 2019
LVN Group tư vấn pháp luật qua tổng đài trực tuyến 24/7: 1900.0191
1. Đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng
Căn cứ theo quy định tại điều 27. Đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng Luật chứng khoán 2019 quy định cụ thể:
1. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước có quyền đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng tối đa là 60 ngày trong các trường hợp sau đây:
a) Hồ sơ đăng ký chào bán chứng khoán ra công chúng có thông tin sai lệch, bỏ sót nội dung quan trọng có thể ảnh hưởng tới quyết định đầu tư và gây thiệt hại cho nhà đầu tư;
b) Việc phân phối chứng khoán không thực hiện đúng quy định tại Điều 26 của Luật này.
2. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị đình chỉ, tổ chức phát hành phải công bố việc đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng theo phương thức quy định tại khoản 3 Điều 25 của Luật này và phải thu hồi chứng khoán đã phát hành nếu nhà đầu tư có yêu cầu, đồng thời hoàn trả tiền cho nhà đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày nhận được yêu cầu.
3. Khi những thiếu sót dẫn đến việc đình chỉ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng được khắc phục, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước ra văn bản thông báo hủy đình chỉ và chứng khoán được tiếp tục chào bán.
4. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày có thông báo hủy đình chỉ, tổ chức phát hành phải công bố việc hủy đình chỉ theo phương thức quy định tại khoản 3 Điều 25 của Luật này.
Như vậy có thể thấy theo quy định của pháp luật thì việc chào bán cổ phiếu ra công chúng đã được pháp luật quy định rất cụ thể, tại quy định tại khoản 1 điều 27 như trên thì nhà nước là chủ thể có quyền thực hiện đình chỉ hoạt động chào bán chứng khoán ra công chúng Theo như tại khoản 1 thì nếu hồ sơ chào bán chứng khoán ra công chúng có thông tin sai lệch, bỏ sót nội dung quan trọng thì việc đình chỉ là hoàn toàn hợp lý bởi vì nếu thông tin sai lệch sẽ ảnh hưởng tới nhà đầu tư thậm chí có những rủi ro đối với nhà đầu tư, vậy nên để ngăn chặn những ảnh hưởng đó thì cần thiết phải thực hiện đúng quy định này.
Ngoài ra phân phối chứng khoán không thực hiện đúng quy định có nghĩa là không thực hiện đảm bảo các điều kiện mà pháp luật đề ra về phân phối chứng khoán Ví dụ như không đảm bảo minh bạch hồ sơ chào bán cổ phiếu ra công chúng theo đúng quy định thì sẽ bị đình chỉ chào bán chứng khoán ra công chúng.
Về thời hạn thì 07 ngày làm việc thì tổ chức phát hành chứng khoán bị thu hồi chứng khoán đã phát hành nếu nhà đầu tư có yêu cầu và trả lại tiền cho nhà đầu tư, đây là quy định để đảm bảo quyền và lợi ích của nhà đầu tư khi dầu tư chứng khoán. Ngoài ra cũng là ngăn chặn hành vi thực hiện việc chào bán chứng khoán ra công chúng không đúng quy định của pháp luật và nếu tình trạng mà tổ chức phat hành chứng khoán ra công chúng mắc phải không khắc phục được trong khoảng thời gian quy định thì sẽ bị hủy bỏ chào bán chứng khoán đó. Nếu đối với các trường hợp bị hủy chào bán chứng khoán thì tổ chức chứng khoán có trách nhiệm thông báo theo quy định.
2. Hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng
Căn cứ theo quy định tại điều 28. Hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng Luật chứng khoán 2019 quy định cụ thể:
1. Ủy ban Chứng khoán Nhà nước quyết định hủy bỏ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng trong các trường hợp sau đây:
a) Hết thời hạn đình chỉ quy định tại khoản 1 Điều 27 của Luật này mà không khắc phục được những thiếu sót dẫn đến việc đình chỉ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng;
b) Đợt chào bán cổ phiếu lần đầu ra công chúng không đáp ứng được điều kiện về tỷ lệ tối thiểu số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn của tổ chức phát hành theo quy định tại điểm d khoản 1 Điều 15 của Luật này;
c) Đợt chào bán thêm cổ phiếu ra công chúng không đáp ứng được điều kiện về huy động đủ phần vốn để thực hiện dự án của tổ chức phát hành theo quy định tại điểm d khoản 2 Điều 15 của Luật này.
2. Ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị hủy bỏ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
3. Trong thời hạn 07 ngày làm việc kể từ ngày đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị hủy bỏ, tổ chức phát hành phải công bố việc hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng theo phương thức quy định tại khoản 3 Điều 25 của Luật này và phải thu hồi chứng khoán đã phát hành, đồng thời hoàn trả tiền cho nhà đầu tư trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày đợt chào bán bị hủy bỏ. Hết thời hạn này, tổ chức phát hành phải bồi thường thiệt hại cho nhà đầu tư theo các điều khoản đã cam kết với nhà đầu tư.
Như vậy, theo quy định như trên có thể thấy pháp luật đưa ra 03 trường hợp hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng, theo đó nếu thuôc các trường hợp này thì phải thực hiện các thủ tục hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng. Ngoài các trường hợp quy định tại khoản 1 Điều này, đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị hủy bỏ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Theo như trên tại quy định có đưa ra thì chúng ta có thể hiểu khi hết thời hạn đình chỉ 60 ngày mà không khắc phục được những thiếu sót dẫn đến việc đình chỉ đợt chào bán chứng khoán ra công chúng. Ngoài ra thì tối thiểu là 15% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành phải được bán cho ít nhất 100 nhà đầu tư không phải là cổ đông lớn; trường hợp vốn điều lệ của tổ chức phát hành từ 1.000 tỷ đồng trở lên, tỷ lệ tối thiểu là 10% số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành.
Căn cứ theo quy định tại điểm c khoản 1 thì đối với đợt chào bán ra công chúng nhằm mục đích huy động phần vốn để thực hiện dự án của tổ chức phát hành, cổ phiếu được bán cho các nhà đầu tư phải đạt tối thiểu là 70% số cổ phiếu dự kiến chào bán. Tổ chức phát hành phải có phương án bù đắp phần thiếu hụt vốn dự kiến huy động từ đợt chào bán để thực hiện dự án. Ngoài ra thì các trường hợp quy định trên, đợt chào bán chứng khoán ra công chúng bị hủy bỏ theo bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật, quyết định của Trọng tài hoặc cơ quan có thẩm quyền theo quy định của pháp luật.
Kết luận: Hiện nay như chúng ta đã biết theo quy định của pháp luật thì ” Chào bán ra công chúng là chào bán chứng khoán cho một số lượng lớn các nhà đầu tư không kể nhà đầu tư chuyên nghiệp hoặc sử dụng các phương thức quảng cáo hoặc mời chào có tính chất rộng rãi ra công chúng khi chào bán.” đối với các hoạt động chào bán chứng khoán đã rất quen thuộc với chúng ta. chào bán chứng khoán ra công chúng là việc chào bán chứng khoán theo một trong các phương thức như chào bán thông qua phương tiện thông tin đại chúng, chào bán cho từ 100 nhà đầu tư trở lên, không kể nhà đầu tư chứng khoán chuyên nghiệp, chào bán cho các nhà đầu tư không xác định. Bên cạnh đó trong một số trường hợp, pháp luật quy định phải đình chỉ, hoặc thậm chí hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng như chúng tôi đã đưa ra và phân tích như quy định trên. Nếu thuộc các trường hợp phải đình chỉ, hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng thì các tổ chức phát hành chứng khoán phải thực hiện đúng quy định mà pháp luật đề ra.
Trên đây là thông tin chúng tôi cung cấp về nội dung ” Đình chỉ, hủy bỏ chào bán chứng khoán ra công chúng” và các thông tin pháp lý dựa trên quy định của pháp luật hiện hành.