Các trường hợp giới hạn quyền tác giả? Thời hạn bảo hộ quyền tác giả?
Hiện nay, pháp luật Việt Nam thừa nhận và bảo vệ các quyền của chủ thể đối với sản phẩm trí tuệ mà họ tạo ra. Quyền tác giả bao gồm quyền nhân thân và quyền tài sản. Pháp luật cũng quy định, tác giả, chủ sở hữu tác phẩm sẽ bị hạn chế quyền đối với tác phẩm đó trong một số trường hợp nhất định nhằm mục đích để hài hòa lợi ích quyền tác giả và lợi ích chung của cộng đồng. Pháp luật nước ta cũng đã ban hành một số quy định cụ thể về vấn đề này. Bài viết dưới đây Luật LVN Group sẽ giúp người đọc tìm hiểu quy định về giới hạn quyền tác giả và thời gian bảo hộ quyền tác giả?
LVN Group tư vấn luật qua điện thoại trực tuyến miễn phí: 1900.0191
1. Các trường hợp giới hạn quyền tác giả:
Hiện nay, để nhằm mục đích hài hòa giữa lợi ích của quyền tác giả và những lợi ích chung của cộng đồng, pháp luật nước ta đã quy định cụ thể về các trường hợp hạn chế của quyền tác giả đối với một số hành vi sử dụng, khai thác quyền tác giả cụ thể. Trên thực tế, việc giới hạn quyền tác giả quy định trong những trường hợp nhất định do pháp luật quy định, các cá nhân, tổ chức khác sẽ có quyền sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao; sử dụng tác phẩm sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Như vậy, ta nhận thấy, sự hạn chế này được thể hiện thông qua quy định về các trường hợp sử dụng tự do các tác phẩm đã công bố mà không phải xin phép, trong đó có trường hợp không phải trả tiền nhuận bút, thù lao; có trường hợp phải trả tiền nhuận bút, thù lao.
Theo Điều 25 Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005, các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép, không phải trả tiền nhuận bút, thù lao bao gồm các trường hợp sau dây:
– Tự sao chép một bản nhằm mục đích nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân.
– Trích dẫn hợp lý tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để bình luận hoặc minh họa trong tác phẩm của mình.
– Trích dẫn tác phẩm mà không làm sai ý tác giả để viết báo, dùng trong ấn phẩm định kỳ, trong chương trình phát thanh, truyền hình, phim tài liệu.
– Trích dẫn tác phẩm để giảng dạy trong nhà trường mà không làm sai ý tác giả, không nhằm mục đích thương mại.
– Sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu.
– Biểu diễn tác phẩm sân khấu, loại hình biểu diễn nghệ thuật khác trong các buổi sinh hoạt văn hóa, tuyên truyền cổ động không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào.
– Ghi âm, ghi hình trực tiếp buổi biểu diễn để đưa tin thời sự hoặc để giảng dạy.
– Chụp ảnh, truyền hình tác phẩm tạo hình, kiến trúc, nhiếp ảnh, mỹ thuật ứng dụng được trưng bày tại nơi công cộng nhằm giới thiệu hình ảnh của tác phẩm đó.
– Chuyển tác phẩm sang chữ nổi hoặc ngôn ngữ khác cho người khiếm thị.
– Nhập khẩu bản sao tác phẩm của người khác để sử dụng riêng.
Các tổ chức, cá nhân khi sử dụng tác phẩm trong các trường hợp được nêu cụ thể bên trên theo quy định pháp luật sẽ không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả cũng như sẽ phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Đối với việc các tổ chức, cá nhân tự sao chép một bản nhằm mục đích để nghiên cứu khoa học, giảng dạy của cá nhân và sao chép tác phẩm để lưu trữ trong thư viện với mục đích nghiên cứu không áp dụng đối với tác phẩm kiến trúc, tác phẩm tạo hình, chương trình máy tính.
Các trường hợp sử dụng tác phẩm đã công bố không phải xin phép nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao quy định tại Điều 26 Luật Sở hữu trí tuệ bao gồm:
– Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng có tài trợ, quảng cáo hoặc thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng. Mức nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác và phương thức thanh toán do các bên thỏa thuận; trường hợp không thỏa thuận được thì thực hiện theo quy định của Chính phủ hoặc khởi kiện tại Tòa án theo quy định của pháp luật.
– Tổ chức phát sóng sử dụng tác phẩm đã công bố để phát sóng không có tài trợ, quảng cáo hoặc không thu tiền dưới bất kỳ hình thức nào không phải xin phép, nhưng phải trả tiền nhuận bút, thù lao cho chủ sở hữu quyền tác giả kể từ khi sử dụng theo quy định của Chính phủ.
Đối với việc các cá nhân hay tổ chức sử dụng tác phẩm trong các trường hợp nêu trên thì sẽ không áp dụng đối với tác phẩm điện ảnh và việc sử dụng tác phẩm sẽ không được làm ảnh hưởng đến việc khai thác bình thường tác phẩm, không gây phương hại đến các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả; phải thông tin về tên tác giả và nguồn gốc, xuất xứ của tác phẩm.
Giới hạn quyền sở hữu trí tuệ là việc chủ thể quyền sở hữu trí tuệ chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và thời hạn bảo hộ theo quy định của pháp luật. Ngoài ra, việc thực hiện quyền không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước, lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan.
2. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả:
Thời hạn bảo hộ quyền tác giả được hiểu là khoảng thời gian được pháp luật quy định, trong đó các quyền của tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả, người thừa kế quyền tác giả được Nhà nước bảo hộ.
Thời hạn bảo hộ được quy định tại Điều 27 Luật Sở hữu trí tuệ 2005. Theo đó, có thể xác định về thời hạn bảo hộ như sau:
– Bảo hộ vô thời hạn:
Các quyền được pháp luật bảo hộ vô thời hạn được hiểu là các quyền nhân thân đã gắn liền với tác giả và các quyền đó không thể chuyển dịch, bao gồm các quyền cụ thể như sau: Quyền đặt tên cho tác phẩm, quyền đứng tên thật hoặc bút danh trên tác phẩm, được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công bố, sử dụng, quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kì hình thức nào gây phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả..
– Bảo hộ có thời hạn:
Các quyền đối với tác phẩm được pháp luật bảo hộ có thời hạn theo quy định bao gồm quyền nhân thân có thể chuyển dịch (quyền công bố hoặc cho người khác công bố tác phẩm) và các quyền tài sản. Theo quy định cụ thể tại Điều 27 Luật sở hữu trí tuệ có hai cách tính thời hạn bảo hộ quyền tác giả cụ thể như sau:
+ Đối với tác phẩm điện ảnh, sân khấu, mĩ thuật ứng dụng, tác phẩm khuyết danh: là những tác phẩm có thời hạn bảo hộ không tính theo nguyên tắc đời người.
Việt Nam đã trở thành thành viên của Tổ chức thương mại thế giới WTO cũng như tham gia kí kết một số điều ước quốc tế song phương và đa phương liên quan đến quyền tác giả. Do đó, các quy định của pháp luật liên quan đến vấn đề này phải phù hợp và tương thích với các cam kết quốc tế.
Đối với tác phẩm điện ảnh, nhiếp ảnh, mĩ thuật ứng dụng chưa được công bố trong thời hạn hai mươi lăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là một trăm năm, kể từ khi tác phẩm được định hình theo quy định của pháp luật.
Trong thời hạn năm mươi năm, kể từ khi tác phẩm điện ảnh, tác phẩm sân khấu được định hình, nếu tác phẩm chưa được công bố thì thời hạn bảo hộ được tính từ khi tác phẩm đó được định hình. Nếu đã hết năm mươi năm đó tác phẩm mới được công bố thì sẽ không được bảo hộ nữa.
Đối với tác phẩm khuyết danh là tác phẩm mà tác giả không đứng tên trên tác phẩm đó hoặc hoặc chỉ đề kí hiệu trên tác phẩm nhưng kí hiệu đó không đủ cơ sở để xác định chính xác về tác giả của tác phẩm. Trong thời hạn được nêu trên, các chủ thể là người được hưởng quyền đối với tác phẩm khuyết danh là Nhà nước, trong trường hơp tác phẩm khuyết danh cho các tổ chức, cá nhân đang quản lí thì tổ chức, cá nhân đó được hưởng quyền đối với tác phẩm.
Trong trường hợp khi các thông tin về tác giả xuất hiện trong thời hạn năm mươi năm kể từ khi tác phẩm khuyết danh được công bố lần đầu tiên đủ để xác định danh tính của tác giả, chủ sở hữu tác phẩm khuyết danh thì các quyền đối với tác phẩm đó thuộc về họ và sẽ được bảo hộ kể từ ngày danh tính của các chủ thể đó được xác định cho đến năm mươi năm sau khi họ chết (nếu tác phẩm khuyết danh đó không thuộc tác phẩm điện ảnh, sân khấu, mĩ thuật ứng dụng).
+ Đối với tác phẩm di cảo thì pháp luật quy định thời hạn bảo hộ là năm mươi năm kể từ khi tác phẩm đó được công bố lần đầu tiên. Di cảo được hiểu là bản thảo tác phẩm của người chết để lại. Theo đó, ta có thể hiểu tác phẩm di cảo là tác phẩm chỉ được phát hiện sau khi tác giả của tác phẩm đã chết. Do vậy, khi tác giả của tác phẩm đó còn sống thì tác phẩm đã được định hình theo hình thái vật chất nhất định nhưng chưa ai biết về tác phẩm đó nên thời hạn được bảo hộ đối với tác phẩm này không được xác định theo thời điểm tác phẩm được định hình.
+ Còn đối với tác phẩm thuộc các loại hình khác thì thời hạn bảo hộ được quy định là suốt cuộc đời tác giả và năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết. Trong đó, đối với tác phẩm do một tác giả sáng tạo thì thời điểm bắt đầu để tính năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết là thời điểm tác giả đó chết hoặc được coi là đã chết. Đối với tác phẩm do các đồng tác giả cùng sáng tạo ra thì pháp luật quy định thời điểm bắt đầu để tính năm mươi năm tiếp theo năm tác giả chết là thời điểm tác giả cuối cùng chết hoặc được coi là đã chết.
Ta nhận thấy, đối với việc pháp luật nước ta đưa ra quy định về bảo hộ quyền tác giả năm mươi năm sau khi tác giả chết là hợp lý và để nhằm xác định quyền để lại thừa kế của tác giả đối với tác phẩm cho những người thừa kế của họ. Do đó, khi tác giả chết thì quyền tác giả cũng là loại di sản thừa kế và được chuyển dịch theo quy định của pháp luật thừa kế.
Thời hạn bảo hộ theo quy định cụ thể được nêu trên chấm dứt vào thời điểm 24 giờ ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.