Hạn chế quyền con người theo Hiến pháp 2013 và pháp luật quốc tế - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - DG - Hạn chế quyền con người theo Hiến pháp 2013 và pháp luật quốc tế

Hạn chế quyền con người theo Hiến pháp 2013 và pháp luật quốc tế

Hạn chế quyền con người trong Hiến pháp 2013? Pháp luật quốc tế về hạn chế quyền con người, tạm đình chỉ quyền con người?

Tổng đài LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến 24/7: 1900.0191

1. Hạn chế quyền con người trong Hiến pháp 2013:

Trong các bản Hiến pháp trước đây, đặc biệt Hiến pháp 1992, nội hàm của quyền con người chỉ chủ yếu được dừng lại khái niệm chủ thể công dân, không phải mọi người. Trong Hiến pháp 2013, các chủ thể quyền được mở rộng, từ việc chỉ thuộc về công dânđến mọi người, tổ chứchay nhóm hội cộng đồng, đặc biệt những nhóm dễ bị tổn thương (trẻ em, thanh niên, người cao tuổi)

Đặc biệt, lần đầu tiên trong lịch sử lập hiến Việt Nam, Hiến pháp quy định về nguyên tắc hạn chế quyền con người. Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp năm 2013 đã xác lập nguyên tắc chung về hạn chế quyền khi quy định điều kiện của việc hạn chế : (i) theo quy định của luật; (ii) trong các trường hợp cần thiết

Theo quy định của luật

Hiến pháp quy định việc hạn chế quyền phải được ban hành bởi luậtvăn bản được ban nh bởi Quốc hội quan lập pháp quốc gia. Mặc vậy, trong giới học thuật Việt Nam, một số người vẫn đặt ra vấn đề nên giải thích cụm từ luật(law) theo nghĩa rộng bao gồm các văn bản quy phạm pháp luật, không chỉ bao gồm các văn bản luật của Quốc hội, còn cả các văn bản quy phạm pháp luật của các quan nhà nước khác. Tranh luận này không phải cớ, bởi Việt Nam, luậtthường được hiểu rất rộng trong thực tiễn, bởi hiện nay, vẫn còn những văn bản không phải luật nhưng những quy định nhằm giới hạn một số quyền cụ thể chưa bị thay thế (Nghị định số 31/2014/CP quy định chi tiết mt số điều và biện pháp thi hành luật trú lại bổ sung thêm điều kiện tăng thời gian tạm trú lên 2 năm đối với việc đăng thường trú ti quận thuộc thành phố trực thuộc trung ương (Khoản 4 Điều 8). Nghị định số 38/2005/CP của Chính phủ về biện pháp bảo đảm trật tcông cộng và Thông 09/2005/TTBCA của Bộ Công an hướng dẫn thi nh nghị định này khi quy định một số biện pháp bảo đảm trật tcông cộng được biết đến là quy định nhắm giới hạn quyền biểu tình). Ngay cả Hiến pháp 2013 cũng những quy định tính hai mặtvề vấn đề này. Cụ thể, mặc quy định khá tại khoản 2 Điều 14 việc giới hạn phải theo quy định của luật, nhưng tại một số quyền cụ thể trong Hiến pháp lại 2 cách quy định khi nói về luật giới hạn quyền theo quy định của pháp luật, luật định(Điều 20, Điều 22, Điều 30 Hiến pháp 2013)

Quan điểm của tác giả cho rằng để đáp ứng yêu cầu thực tiễn của Việt Nam quốc gia chưa hoàn thiện hệ thống luận về giới hạn quyền chế bảo vệ Hiến pháp thì việc chỉ cho phép luật(của Quốc hội) mới thể hạn chế quyền con người phù hợp. Điều này một lần nữa được khẳng định trong Báo cáo của Chính phủ kết 5 năm triển khai thi nh Hiến pháp 2013 ...bảo đảm việc hạn chế quyn chỉ trong các trường hợp đã được Hiến pháp quy định chỉ bằng luật

Việc hạn chế quyền bằng luật thực sự cần thiết trong điều kiện thực tiễn Việt Nam với 4 do bản

1) Nhiều năm qua Việt Nam, thực trạng các quan nhà nước từ trung ương đến địa phương lạm dụng hạn chế tùy tiện các quyền con người, quyền công dân bằng việc ban hành các văn bản dưới luật để quy định thêm các điều kiện liên quan việc thực hiện quyền công dân

2) Thực tiễn phổ biến về việc ban hành các văn bản giải thích, hướng dẫn luật, pháp lệnh của Quốc hội. Ủy ban thường vụ Quốc hội được trao quyền giải thích Hiến pháp pháp luật nhưng từ khi ban hành Hiến pháp 2013, Uỷ ban thường vụ Quốc hội vẫn chưa sử dụng quyền này (Hiến pháp 1959 lần đầu tiên quy định Ủy ban thường vụ Quốc hội (UBTVQH) nhiệm vụ, quyền hạn giải thích chính thức Hiến pháp luật, pháp lệnh. Đến nay, UBTVQH mới tiến hành được 5 lần. Lần gần đây nhất là o ngày 10/11/2006, UBTVQH chính thức giải thích khoản 6 Điều 19 Luật Kiểm toán nhà nước (Nghị quyết số 1053/2006/NQUBTVQH))

3) Việt Nam chưa trao quyền cho tòa án quyền kiểm tra tính hợp hiến, hợp pháp các văn bản quy phạm pháp luật

4) Người dân không quyền khởi kiện ra tòa để yêu cầu tòa án xem xét các văn bản quy phạm pháp luật dưới luật vi phạm các quyền lợi ích hợp pháp của htheo quy định của Hiến pháp pháp luật. Chính vì thế, nếu cho phép hạn chế quyền bằng pháp luật(nghĩa rộng) sẽ dẫn đến nguy hiện hữu tiếp tục của tình trạng lạm dụng quy định quyền con người do đó dẫn đến tình trạng vi phạm các quyền con người

Trong các trường hợp cần thiết

sở, căn cứ để quyền chỉ trong trường hợp cần thiết. Để đánh giá thế nào cần thiếtđưa ra định nghĩa của từng trường hợp cần thiết điều không đơn giản, nhất trong lĩnh vực quyền con người. Sự cần thiết này hàm ý trong đó yếu tố có xung đột lợi ích giữa nhân hội, Nhà nước với chức năng, nhiệm vụ của mình phải cách can thiệp vừa mức. Hạn chế quyền chỉ cần thiết khi không sự thay thế nào khác nhằm bảo toàn lợi ích hợp pháp của nhà nước biện pháp này nên được áp dụng như một giải pháp cuối cùng nhằm hạn chế tối đa tác động nên việc quyền. Lưu ý rằng, việc quyền trong các trường hợp cần thiết phi tương xứng tác hại của việc quyền không nên vượt quá mục đích của

Khoản 2 Điều 14 Hiến pháp 2013 dùng phương pháp liệt các trường hợp được cho cần thiếtbao gồm: “lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn hội, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đng, những do này còn được biết đến với cách diễn tả lợi ích hợp pháp của nhà nước. Các tiêu chí này về bản phù hợp với cách hiểu chung của pháp luật quốc tế các quốc gia (Điều 29 Tuyên ngôn Quốc tế về Nhân quyền, Khoản 3 Điều 55 Hiến pháp Liên bang Nga năm 1993, Điều 19 Luật bản của Cộng hòa Liên Bang Đức năm 1949, sửa đổi năm 2019. Điều 1 Hiến Chương Canada về các quyền tự do năm 1982, Điều 36 Hiến pháp Cộng hòa Nam Phi năm 1996,...). Tuy nhiên, các do trên cần phải được giải thích chỉ ra một cách ràng, minh bạch, quyền nào sẽ bị do quốc phòng, an ninh, trường hợp nào do an toàn trật tự, đạo đức hội, sức khỏe cộng đồng hoặc tất cả các do trên. Hiện nay, chỉ một số khái niệm được giải thích trong luật, như khái niệm quốc phòng, an ninh quốc gia được ghi nhận trong các Luật an ninh quốc gia 2014 Luật Quốc phòng 2018. Việc giải thích các quy định của Hiến pháp thuộc thẩm quyền của Ủy ban Thường vụ Quốc hội, nhưng quan này hiếm khi thực hiện quyền giải thích Hiến pháp, dành việc việc thích thuật ngữ trong các luật chuyên ngành

vậy, khi Tòa án kng được trao quyền giải thích Hiến pháp, pháp luật một cách chính thống qua các vụ việc cụ thể thì cần phương pháp phân tích cân xứng [3] để kiểm tra, đánh giá quy định quyền có đạt được sự cân bằng và i hòa giữa lợi ích hợp pháp quốc gia được bảo vệ và thiệt hại từ việc quyền. Tại Việt Nam, phương pháp này chưa được phổ biến khi nghiên cứu để áp dụng nguyên tắc quyền. Nhưng với cuộc thử nghiệm quy định quyền vượt qua đủ bốn bước theo phương pháp này thì được coi hợp hiến, nếu thất bại bất giai đoạn nào thì kết quả sự hạn chế quyền đó bị tuyên bố vị hiến. Điều được chờ đợi quan lập pháp của Việt Nam sẽ giải thích thành tố này như thế nào cho phù hợp với chuẩn mực quốc tế về quyền trong thời gian tới

Ngoài ra, để đảm bảo các trường hợp quyền được thực thi một cách chính đáng, một số yêu cầu khác cần được đặt ra nghiên cứu đưa vào luật như việc quyền phải đáp ứng yêu cầu của một hội dân chủ; quyền con người không được làm mất đi bản chất của quyền con người, không quyền nào quyền tuyệt đối tại bản Hiến pháp năm 2013. Tất cả các yêu cầu này cần được quy định theo phương pháp tiếp cận dựa trên quyền, để đảm bảo rằng các quyền con người, quyền công dân được công nhận, tôn trọng, bảo vệ, bảo đảm theo Hiến pháp, pháp luật

Như vậy, với những quy định trên ca Hiến pháp năm 2013, hạn chế quyền con người về bản trùng khớp với giới hạn quyền con người (limitation of rights). Tuy vậy, Hiến pháp không quy định về tạm đình chỉ quyền con người trong tình trạng khẩn cấp. Đây thể một sự thiếu sót lớn, bởi tạm đình chỉ quyền biện pháp rất tiêu cực đến quyền con người, thế chỉ được áp dụng trong các điều kiện khắt khe của tình trạng khẩn cấp. Không thể áp dụng tạm đình chỉ quyền tương tự như áp dụng các quy định về hạn chế quyền con người theo Hiến pháp năm 2013

2. Pháp luật quốc tế về giới hạn quyền con người, tạm đình chỉ quyền con người:

Giới hạn quyền con người đã được quy định trong nhiều điều ước quốc tế về quyền con người. Mặc phần lớn các quyền đều thể giới hạn tuy nhiên theo luật nhân quyền quốc tế vẫn những quyền tuyệt đối các quốc gia không thể đặt ra giới hạn. Do vậy, xác định đâu quyền tuyệt đối rất quan trọng để tránh các quyền đều thể bị giới hạn như nhau

Giới hạn quyền con người, quyền công dân việc Hiến pháp hay văn bản luật của quốc gia điều khoản hạn chế quyền cho phép nhà nước áp đặt điều kiện đối với việc hưởng thụ hay thực hiện quyền và tự do cá nhân nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng, hợp của nhà nước, hội và của nn khác. ràng rằng giới hạn quyền cũng cách thức bảo vệ quyền

Tuyên ngôn toàn thế giới về quyền con người (UDHR) năm 1948 Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, hội, văn hóa (ICESCR) m 1966 quy định tương tự khi dành một điều khoản riêng đề cập giới hạn quyền như nguyên tắc giới hạn chung áp dụng cho tất cả các quyền trong văn kiện (Điều 29 UDHR, Điều 4 ICESCR). Theo đó, cả hai văn kiện đều đặt ra các điều kiện giới hạn quyền sau: (1) Giới hạn quyền phải được quy định bởi luật (determined by law); (2) những giới hạn đặt ra không trái với bản chất của các quyền (compatible with the nature of these rights); (3) mục đích giới hạn quyền nhằm công nhận tôn trọng thích đáng đối với các quyền tự do của người khác, đáp ứng những yêu cầu chính đáng về đạo đức, trật tự công cộng phúc lợi chung; (4) cần thiết trong một hội dân chủ (in a democratic society)

Khác với các văn kiện trên, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (ICCPR) năm 1966 không điều khoản riêng về giới hạn quyền, ICCPR khi quy định về từng quyền sẽ đoạn xác định về điều kiện giới hạn quyền, theo đó, ICCPR gọi những quyền này quyền tương đối (non absolute rights) bên cạnh những quyền tuyệt đối (absolute rights) sẽ kng bị giới hạn hay bị đình chỉ trong bất cứ trường hợp nào (Điều 4 ICCPR.). Cần lưu ý rằng, nếu như giới hạn quyền được áp dụng cả trong những tình huống thông thường, thì đình chỉ quyền (derogration of rights) chỉ được áp dụng trong tình huống đặc biệt khi tình trng khẩn cấp đe dọa đến sự sống còn của quốc gia với các yêu cầu, điều kiện được pháp luật quốc tế quy định như đã trình bày trên

Hầu hết Hiến pháp các quốc gia đều quy định về nguyên tắc giới hạn quyền bằng một điều khoản cụ thể, trong khi đó, một số Hiến pháp còn quy định thêm những điều kiện giới hạn áp dụng riêng cho một số quyền. Như Hiến pháp của Công hòa Nam Phi năm 1996 bản Hiến pháp tiến độ nhất trên thế giới với những tuyên ngôn nhân quyền mnh mẽ, tại Chương II mục 36 đưa ra nguyên tắc giới hạn quyền phải hợp chính đáng trong một hội dân chủ cởi mởphải xem xét một số yếu tố đi cùng (c yếu tố đi kèm phải tính đến khi giới hạn quyền như: bản chất của quyền; tầm quan trọng của việc giới hạn; bản cht mức độ của sgiới hạn; mối quan hệ giữa giới hạn mục đích của ; các biện pháp ít hạn chế hơn nhưng cũng đạt mục tiêu). Chương 2 cũng thừa nhận sự cần thiết đình chỉ quyền trong tình trng khẩn cấp, nhưng cũng liệt một số quyền không bị tạm đình chỉ. Hiến pháp Nga năm 1993 tại Khoản 3 Điều 55 ghi nhận nguyên tắc giới hạn quyền, theo đó quyền tự do của con người công dân thể bị giới hạn bởi pháp luật liên bang trong mức độ cần thiết đủ để bảo vệ nền tảng chế độ hiến pháp, đạo đức, sức khỏe, các quyền lợi ích hợp pháp của người khác, bảo đảm quốc phòng an ninh quốc gia. Ngoài ra, Hiến pháp Nga còn những điều khoản ghi nhận việc giới hạn dành cho một số quyền cụ thể như khoản 2 Điều 23 khi quy định rằng việc hạn chế quyền mật thư tín, điện thoại nh thức trao đổi thông tin khác chỉ được phép khi quyết định của Tòa án. Nhưng Hiến pháp Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa năm 1982 Hiến pháp Nhật Bản năm 1946 lại không quy định ràng về nguyên tắc giới hạn quyền hay việc tạm đình chỉ quyền.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com