Hợp đồng bảo hiểm là văn bản thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là văn bản thỏa thuận về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia. Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm.
Hợp đồng bảo hiểm là căn cứ quan trọng quy định về quyền và nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm theo thỏa thuận của hai bên. Hợp đồng bảo hiểm có những đặc trưng cơ bản sau đây:
1. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng song vụ
Điều 406 Bộ luật dân sự 2005 quy định “Hợp đồng song vụ là hợp đồng mà mỗi bên đều có nghĩa vụ đối với nhau”. Sở dĩ Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng song vụ vì: Trong quá trình thực hiện hợp đồng bảo hiểm, các bên thực hiện các nghĩa vụ và quyền theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm. Quyền của bên này là nghĩa vụ của bên kia và ngược lại.
Nghĩa vụ của bên được bảo hiểm (bao gồm người tham gia bảo hiểm, người được bảo hiểm và người thụ hưởng) bao gồm: Cung cấp thông tin cho việc giao kết hợp đồng bảo hiểm; Thông báo những thay đổi liên quan đến việc thực hiện hợp đồng bảo hiể; Nộp phí bảo hiểm; Thông báo sự kiện bảo hiểm xảy ra; Thực hiện các biện pháp phòng ngừa rủi ro, hạn chế tổn thất.
Với các nghĩa vụ của bên được bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm có các quyền cơ bản sau: Thu phí bảo hiểm theo thoả thuận trong hợp đồng bảo hiểm; Yêu cầu bên được bảo hiểm cung cấp đầy đủ, trung thực các thông tin liên quan đến việc giao kết và thực hiện hợp đồng bảo hiểm; Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong một số trường hợp; Từ chối bồi thường bảo hiểm khi sự kiện xảy ra bị loại trừ, không thuộc phạm vi trách nhiệm bảo hiểm; Yêu cầu bên được bảo hiểm thực hiện các biện pháp đề phòng rủi ro, hạn chế tổn thất.
Nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm: Doanh nghiệp bảo hiểm phải cung cấp và giải thích cho bên được bảo hiểm (Nghĩa vụ thông tin); Cấp hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng về hợp đồng bảo hiểm; Bồi thường, trả tiền bảo hiểm; Phối hợp với bên được bảo hiểm để giải quyết yêu cầu đòi bồi thường của người thứ ba.
Đối với các nghĩa vụ của doanh nghiệp bảo hiểm, bên được bảo hiểm có các quyền sau: Yêu cầu doanh nghiệp bảo hiểm giải thích các điều kiện, điều khoản, tài liệu liên quan đến hợp đồng bảo hiểm; cung cấp thông tin về hợp đồng bảo hiểm đã giao kết; giữ bí mật các thông tin mà bên được bảo hiểm đã cung cấp; Được cấp hợp đồng bảo hiểm hoặc bằng chứng của hợp đồng bảo hiểm đã giao kết; Được bồi thường, trả tiền bảo hiểm theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm; Đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm trong một số trường hợp; Chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm theo thoả thuận của hợp đồng bảo hiểm hoặc theo quy định của pháp luật.
2. Tính đền bù trong hợp đồng bảo hiểm không xác định được ở thời điểm giao kết hợp đồng (Trừ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ)
Các quan hệ bảo hiểm được hình thành từ thời điểm hợp đồng bảo hiểm có hiệu lực, song bên bảo hiểm chỉ phải thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường thiệt hại cho người tham gia bảo hiểm khi sự kiện bảo hiểm xảy ra. Nghĩa là rủi ro được bảo hiểm chỉ là giả thiết xảy ra trong tương lai nhưng không biết chính xác diễn biến sự kiện sẽ xảy ra ở đâu, bao giờ và cụ thể rủi ro là gì, mức độ tổn thất bao nhiêu… Mua bảo hiểm chính là phòng tránh rủi ro trước khi nó xảy ra. Điều 571 Bộ luật dân sự 2005 quy định: “Sự kiện bảo hiểm là sự kiện khách quan do các bên thoả thuận hoặc do pháp luật quy định mà khi sự kiện đó xảy ra thì bên bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm”.
Riêng bảo hiểm nhân thọ lại có thể bảo hiểm được cho biến cố chắc chắn xảy ra trong thời hạn hợp đồng bảo hiểm nhưng vẫn bấp bênh về mặt thời điểm xảy ra (chẳng hạn hợp đồng bảo hiểm nhân thọ trọn đời bảo hiểm cho sự cố chết của người được bảo hiểm) hoặc sự cố tự tử đã không còn là ngẫu nhiên đối với người được bảo hiểm vẫn có thể được bảo hiểm khi hợp đồng bảo hiểm đã có hiệu lực được một khoảng thời gian nhất định (thường là từ hai năm trở lên). Điều này xuất phát từ đặc tính của bảo hiểm nhân thọ: không chỉ chuyển giao rủi ro đơn thuần mà còn nhằm đáp ứng các nhu cầu khác như là tích luỹ tài chính, đầu tư …của khách hàng bảo hiểm nhân thọ.
>>> LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.0191
3. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu
Điều này thể hiện ở chỗ bên tham gia bảo hiểm không được quyền đàm phán hoặc sửa đổi, các điều khoản chủ yếu của hợp đồng mà doanh nghiệp đã đưa vào hợp đồng mẫu. Bên tham gia bảo hiểm chỉ tuân thủ hoặc có thể từ chối kí kết vào hợp đồng bảo hiểm.
Đối với hợp đồng bảo hiểm tự nguyện: Trong thực tiễn hiện nay, các doanh nghiệp bảo hiểm thường đưa ra trước các bấn đề thuộc về nội dung của hợp đồng như mức phí bảo hiểm, số tiền bảo hiểm, sự kiện bảo hiểm, điều kiện bảo hiểm… việc làm này không ảnh hưởng đến tính tự nguyện ý chí của bên tham gia bảo hiểm. Quyền quyết định việc tham gia bảo hiểm hay không và tham gia với doanh nghiệp bảo hiểm nào vẫn do bên tham gia bảo hiểm quyết định. Trong môi trường cạnh tranh, người tham gia bảo hiểm có quyền tham gia bảo hiểm với doanh nghiệp nào họ cảm thấy có lợi cho mình nhất. Việc tham gia bảo hiểm chấp nhận các điều kiện tiêu chuẩn trong các điều khoản hợp đồng mà bên doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra trước chính là sự tự do ý chí của họ, họ đã tự do lựa chọn chấp nhận hoặc không chấp nhận.
Đối với hợp đồng bảo hiểm bắt buộc là loại hợp đồng do pháp luật quy định về điều kiện bảo hiểm, mức phí, số tiền bảo hiểm tối thiểu mà tổ chức, cá nhân tham gia bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có nghĩa vụ thực hiện. Loại hợp đồng này các chủ thể bắt buộc phải tham gia trong những trường hợp nhằm bảo vệ lợi ích công cộng, trật tự an toàn xã hội.
4. Hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng mang tính may rủi
Hợp đồng bảo hiểm là phương tiện để các bên thiết lập với nhau một quan hệ mà nội dung chủ yếu là chuyển dịch rủi ro từ bên mua bảo hiểm sang bên nhận bảo hiểm. Bên mua bảo hiểm nhằm thông qua quan hệ bảo hiểm để đạt được sự an toàn, bình ổn về tình trạng kinh tế của mình trong những trường hợp xuất hiện rủi ro gây ra tổn thất về tính mạng, sức khỏe, tài sản của chính mình cũng như của người khác mà mình phải chịu trách nhiệm bồi thường thiệt hại.
Trong suốt thời hạn có hiệu lực của hợp đồng, nếu sự kiện bảo hiểm không xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ may mắn có được một khoản thu nhập từ tiền phí do bên tham gia bảo hiểm nộp. Tuy nhiên nếu rủi ro xảy ra, doanh nghiệp bảo hiểm sẽ phải dánh chịu tổn thất do rủi ro đó đem lại thay cho bên được bảo hiểm bằng cách bồi thường thiệt hại cho bên được bảo hiểm hoặc bên thụ hưởng. Như vậy, đối với doanh nghiệp bảo hiểm, một doanh nghiệp bảo hiểm có hiệu quả hay không hoàn toàn mang tính ngẫu nhiên. Đó có thể là một hợp đồng may mắn hay rủi ro cho doanh nghiệp bảo hiểm còn tùy thuộc vào việc liệu sự kiện bảo hiểm có thể xảy ra hay không.