Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp là gì? Thành lập, tham gia tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp?
Trong quan hệ lao động thì giữa người lao động luôn là bên yếu thế và cần được bảo vệ, bởi lẽ giữa người lao động và người sử dụng lao động luôn tồn tại một mối quan hệ cấp trên- cấp dưới, mối quan hệ giữa người làm thuê- người thuê. Do đó, việc bảo vệ cũng như thành lập tổ của người lao động tại doanh nghiệp là vô cùng quan trọng, cần thiết và có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động tại doanh nghiệp. Vậy việc thành lập, gia nhận tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được quy định như thế vào? Bài viết dưới đây của Luật LVN Group sẽ cung cấp cho bạn đọc nội dung liên quan đến:” Thành lập, gia nhập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp”
LVN Group tư vấn pháp luật miễn phí qua điện thoại 24/7: 1900.0191
– Cơ sở pháp lý:
+ Bộ luật lao động 2019
+ Luật công đoàn 2012
+ Quyết định 174/QĐ-TLĐ năm 2020 về Điều lệ Công đoàn Việt Nam (khóa XII) do Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam ban hành
1. Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp là gì?
– Có thể thấy, hoạt động của các cấp công đoàn có quan hệ mật thiết, tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau. Mỗi cấp công đoàn đều có quyền hạn riêng Công đoàn cấp trên trực tiếp lãnh đạo công đoàn cấp dưới, ban hành các chính sách, quyết định nhằm điều chỉnh hoạt động của các tổ chức công đoàn bộ phận tuỳ thuộc vào tình hình thực tiễn cụ thể.
– Theo đó, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp cũng có chức năng đại diện cho người lao động trong việc bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp hoặc các công việc khác theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên, tổ chức của người đại diện lao động lại không nằm trong hệ thống chính trị của xã hội Việt Nam mà chỉ là tổ chức do người lao động thành lập theo trình tự, thủ tục luật định. Tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp chỉ có ở cấp cơ sở – cấp doanh nghiệp, không có hệ thống các cấp như tổ chức công đoàn nhưng về bản chất, tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp và công đoàn đều có những quyền và nghĩa vụ trong việc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động. Do đó, trước hết cần hiểu được về công đoàn.
– Hoạt động của công đoàn cấp dưới lại quyết định quyền lợi của người lao động có được thực thì trên thực tế hay không. Công đoàn cơ sở là địa bàn hoạt động chủ yếu, nơi trực tiếp liên hệ với người lao động và hợp tác với người sử dụng lao động nhằm chăm lo lợi ích và đời sống cho người lao động. Như vậy, hoạt động của công đoàn cấp dưới có hiệu quả thi công đoàn cấp trên mới có sức mạnh, trong đó hoạt động của công đoàn cơ sở là yếu tố quyết định nhưng để làm được điều đó, công đoàn cơ sở lại cần có những tiên đề và sự đảm bảo từ các công đoàn cấp trên. với việc xuất hiện tổ chức đại diện người lao động ở doanh nghiệp không thuộc tổ chức Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam thì vấn đề tài chính công đoàn cần phải có sự tiếp cận lại cho phù hợp các tiêu chuẩn quốc tế.
– Công đoàn được coi là tổ chức chính trị-xã hội của giai cấp công nhân và của người lao động, cùng với cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội chăm lo và bảo vệ quyền lợi của cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác, tham gia quản lí nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra và giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức kinh tế, giáo dục cán bộ, công nhân, viên chức và những người lao động khác xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
– Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam có nhiều chức năng cơ bản như đại diện bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động; tham gia quản lý nhà nước, quản lí kinh tế-xã hội, tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan nhà nước, tổ chức, đơn vị, doanh nghiệp, tuyên truyền, vận động người lao động học tập nâng cao trình độ, kĩ năng nghe nghiệp, chấp hành pháp luật, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
– Như vậy, về cơ bản, chức năng của công đoàn Việt Nam cũng tương tự như các công đoàn khác trên thế giới, mặc dù mức độ đầu tư thực hiện mỗi chức năng có thể khác nhau. Theo nhận thức chung, trong số các chức năng của công đoàn, chức năng đại diện và bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động là chức năng cơ bản, trọng tìm hàng đầu của tổ chức công đoàn trong cơ chế thị trường hiện nay. Nhà nước ta đang tiếp tục thực hiện chính sách hội nhập kinh tế, khuyến khích các thành phần kinh tẻ tự do kinh doanh, mở rộng các hình thức đầu tư nhằm phát triển kinh tế. Quan hệ lao động giữa người lao động và người sử dụng lao động ở các đơn vị lao động là quan hệ trao đổi, mua ban sức lao động nên khó tránh khỏi sự lạm dụng, bóc lột. Do vậy, sự tham gia của tổ chức đại diện lao động – tổ chức công đoàn nhằm tạo ra một trong quan để bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động là hết sức cần thiết.
– Xác định chức năng đại diện và bảo vệ người lao động là chức năng cơ bàn, trọng tàm hàng đầu trong cơ chế thị trường hiện nay không có nghĩa là công đoàn đúng về phía người lao động đòi lập hoàn toàn với lợi ích của người sử dụng lao động, của xã hội. Bởi vì xét cho cùng quyền lợi của người lao động chỉ đạt được một cách ổn định, bền vững khi quan hệ lao động diễn ra hài hòa, trên cơ sở tôn trọng, hiểu biết lẫn nhau tức là quyền lợi người sử dụng lao động, xã hội cũng phải được đảm bảo. Như vậy chức năng bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp người lao động của công đoàn cần được đặt trong nỗi quan hệ hợp tác và tôn trọng với người sử dụng lao động, với tổ chức đại diện của người sử dụng lao động.
– Về quyền của công đoàn:
+ Thứ nhất, Quyền đại diện, bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động: Hướng dẫn, tư vấn cho người lao động về quyền, nghĩa vụ của họ khi giao kết, thực hiện, châm dứt hợp đồng lao động Nội dung hướng dẫn tư vấn bao gồm những vấn đề như hình thức, nguyên tắc, loại hợp đồng, nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên, thời gian thử việc, tập sự, nghĩa vụ thực hiện công việc theo hợp đồng. trình tự, thủ tục, quyền và nghĩa vụ của các bên trong trường hợp chuyển người lao động làm công việc khác, các trường hợp tạm hoãn hợp đồng, nhận lại người lao động hết thời gian tạm hoãn hợp đồng làm việc, trình tự, thủ tục và các chế độ đối với người lao động khi phát sinh sửa đổi, bổ sung, chấm dứt hợp đồng lao động, hợp đồng làm việc, đại diện cho tập thể người lao động thực hiện thương lượng, kí kết và giám sát việc thực hiện thỏa ước lao động tập thể.
+ Thứ hai, quyền tham gia quản lý nhà nước, quản lý kinh tế-xã hội: Đây cũng là quyền quan trọng của công đoàn và được hướng dẫn khá chi tiết trong quy định của Chính phủ. Công đoàn tham gia với cơ quan nhà nước xây dựng chính sách, pháp luật về kinh tế-xã hội, lao động, việc làm, tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, bảo hộ lao động và chính sách, pháp luật khác liên quan đến tổ chức công đoàn, quyền, nghĩa vụ của người lao động, phối hợp với cơ quan nhà nước nghiên cứu, ứng dụng khoa học, công nghệ kĩ thuật bảo hộ lao động, xây dựng tiêu chuẩn, quy chuẩn an toàn, vệ sinh lao động, tham gia với cơ quan nhà nước quản lí bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế, giải quyết khiếu nại, tố cáo của người lao động tập thể người lao động theo quy định của pháp luật, tham gia xây dựng quan hệ lao động hài hoà, ổn định và tiên bộ trong cơ quan tổ chức, doanh nghiệp tham gia xây dựng và thực hiện quy chế dân chủ trong cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp cũng như phải hợp tổ chức phong trào thi đua trong phạm vi ngành, địa phương, cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp.
+ Thứ ba, ngoài ra còn có các quyền như: quyền trình dự án luật, pháp lệnh và kiến nghị xây dựng chính sách, pháp luật; quyền tham dự các phiên họp, cuộc họp, kỳ họp và hội nghị; quyền tham gia thanh tra, kiểm tra, giám sát hoạt động của cơ quan, tổ chức, doanh nghiệp; quyền phát triển đoàn viên công đoàn và công đoàn cơ sở.
2. Thành lập, tham gia tổ chức đại diện người lao động tại doanh nghiệp.
– Tại Điều 170 Bộ luật lao động quy định về quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức đại diện người lao động tại cơ sở, theo đó, người lao động có quyền thành lập, gia nhập và hoạt động công đoàn theo quy định của Luật Công đoàn 2012. Theo đó, người lao động trong doanh nghiệp có quyền thành lập, gia nhập và tham gia hoạt động của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp theo quy định của pháp luật và các tổ chức đại diện người lao động quy định đều bình đẳng với nhau về về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động.
– Về thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp:
+ Sau khi cơ quan nhà nước có thẩm quyền cấp đăng ký thì tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập và hoạt động hợp pháp. Khi tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp được thành lập thì tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp tổ chức và hoạt động phải bảo đảm nguyên tắc tuân thủ Hiến pháp, pháp luật và điều lệ; tự nguyện, tự quản, dân chủ, minh bạch theo quy định của pháp luật về hoạt động tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp.
+ Tổ chức lao động tại doanh nghiệp cũng có thể gia nhập Công đoàn Việt Nam thì thực hiện theo quy định của Luật Công đoàn 2012.
– Về thành phần ban lãnh đạo và thành viên tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp:
+ Thứ nhất, về số lượng: tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp phải có số lượng tối thiểu thành viên là người lao động làm việc tại doanh nghiệp theo quy định của Chính phủ tại thời điểm đăng ký thành lập tổ chức người lao động tại doanh nghiệp.
+ Thứ hai, về ban lãnh đạo, thành viên ban lãnh đạo: thành phần ban lãnh đạo của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp do doanh nghiệp bầu. Điều kiện về thành viên ban lãnh đạo của tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp: phải là người lao động Việt Nam đang làm việc tại doanh nghiệp và không đang trong thời gian bị truy cứu trách nhiệm hình sự, chấp hành hình phạt hoặc chưa được xóa án tích do phạm các tội xâm phạm an ninh quốc gia, các tội xâm phạm quyền tự do của con người, quyền tự do, dân chủ của công dân, các tội xâm phạm sở hữu theo quy định của Bộ luật Hình sự 2015.
– Về thu hồi đăng ký thành lập tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp: trong trường hợp tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp vi phạm về tôn chỉ, mục đích của tổ chức quy định( là bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp, chính đáng của thành viên tổ chức mình trong quan hệ lao động tại doanh nghiệp, cùng với người sử dụng lao động giải quyết các vấn đề liên quan đến quyền, nghĩa vụ và lợi ích của người lao động và người sử dụng lao động, xây dựng quan hệ lao động tiến bộ, hài hòa và ổn định) hoặc tổ chức của người lao động tại doanh nghiệp chấm dứt sự tồn tại trong trường hợp chia, tách, hợp nhất, sáp nhập, giải thể hoặc doanh nghiệp giải thể, phá sản.
– Do đó, có thể thấy với sự xuất hiện của tổ chức đại diện người lao động không thuộc hệ thống Tổng Liên đoàn lao động Việt Nam, không phải là tổ chức chính trị-xã hội nhưng có tư cách bình đẳng về quyền và nghĩa vụ trong việc đại diện bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động trong quan hệ lao động với tổ chức công đoàn cho thấy cần có những thiết chế pháp lí điều chỉnh phủ hợp trong bối cảnh tự do công đoàn ở Việt Nam hiện nay.