Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự - Biểu mẫu
Văn Phòng Luật LVN
Trang chủ - DG - Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo quy định của Bộ luật hình sự

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản (Kidnapping for ransom) là gì? Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản tiếng Anh là gì? Cấu thành tội phạm của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản? Giải thích một số tình tiết định khung tăng nặng?

Có thể khẳng định rằng pháp luật hình sự là một công cụ sắc bén để bảo vệ Đảng, bảo vệ Nhà nước, bảo vệ quyền con người, bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp và chính đáng của tập thể, của cá nhân. Trong cuộc sống, con người không tránh khỏi những hành vi phạm tội gây nguy hiểm cho xã hội, ảnh hưởng trực tiếp và gián tiếp đến cuộc sống của con người. Trong đó pháp luật có quy định về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản, vậy bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là gì? Chi tiết về tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản theo pháp luật hiện hành như nào?

Cơ sở pháp lý:

– Bộ luật hình sự 2015, sửa đổi bổ sung 2017

1. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là gì?

Bắt cóc là hình thức bí mật bắt giữ người trái pháp luật nhằm thực hiện một mục đích hoặc âm mưu nào đó về kinh tế, chính trị.

Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản là hành vi bắt người làm con tin là bắt và giữ lại để buộc người muốn chuộc phải bảo đảm thực hiện một lời hứa nhằm thỏa mãn một yêu sách của người bắt, nhưng chỉ bắt người làm con tin nhằm buộc người muốn chuộc phải giao tài sản hoặc một số tiền thì mới là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu bắt cóc nhằm mục đích khác thì không phải là bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà tùy trường hợp cụ thể mà người có hành vi bắt cóc bị truy cứu trách nhiệm hình sự về các tội phạm tương ứng.

2. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản tiếng Anh là gì?

Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong tiếng Anh là “Kidnapping for ransom”.

3. Cấu thành tội phạm của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

Căn cứ Điều 169 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017 quy định về tội “Bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản” như sau:

“Điều 169. Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

1. Người nào bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản, thì bị phạt tù từ 02 năm đến 07 năm.

2. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 05 năm đến 12 năm:

(a) Có tổ chức;

(b) Có tính chất chuyên nghiệp;

(c) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác;

(d) Đối với người dưới 16 tuổi;

(đ) Đối với 02 người trở lên;

(e) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 50.000.000 đồng đến dưới 200.000.000 đồng;

(g) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 11 % đến 30%;

(h) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội;

(i) Tái phạm nguy hiểm.

3. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 10 năm đến 18 năm:

(a) Chiếm đoạt tài sản trị giá từ 200.000.000 đồng đến dưới 500.000.000 đồng;

(b) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60%.

4. Phạm tội thuộc một trong các trường hợp sau đây, thì bị phạt tù từ 15 năm đến 20 năm hoặc tù chung thân:

(a) Chiếm đoạt tài sản trị giá 500.000.000 đồng trở lên;

(b) Làm chết người;

(c) Gây thương tích, gây tổn hại cho sức khỏe hoặc gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên.

5. Người chuẩn bị phạm tội này, thì bị phạt tù từ 01 năm đến 05 năm.

6. Người phạm tội còn có thể bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt quản chế, cấm cư trú từ 01 năm đến 05 năm hoặc tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản.”

Cấu thành tội phạm của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản

Thứ nhất, mặt khách quan của tội phạm

Một là, hành vi khách quan.

Có hành vi bắt cóc người khác: Bắt cóc là hành vi giữ người trái pháp luật. Thông thường, hành vi bắt người làm con tin được thực hiện một cách mờ ám và đưa người bị bắt đến một nơi nào đó. Sau đó, người phạm tội tìm cách thông báo cho người thân của nạn nhân biết. Theo đó, đối tượng yêu cầu người thân của họ phải nộp một số tiền thì mới thả người. Bằng không, người bị bắt cóc sẽ bị nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm.

Hành vi giữ người trái pháp luật được thực hiên bằng nhiều thủ đoạn khác nhau như: dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc bằng những thủ đoạn khác như cho uống thuốc ngủ, thuốc mê, lừa dối. Qua đó, đối tượng bắt được người làm con tin. Thủ đoạn bắt cóc không phải dấu hiệu đặc trưng của hành vi phạm tội (không có ý nghĩa trong việc định tội). Tuy nhiên, hành vi bắt cóc người làm con tin lại là đặc trưng cơ bản của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản. Bởi vì, bắt người làm con tin chính là một thủ đoạn nhằm chiếm đoạt tài sản.

Ngoài hành vi bắt cóc người làm con tin, người phạm tội còn có hành vi đe dọa người khác (cơ quan, tổ chức hoặc người thân của con tin). Cụ thể, nếu không giao nộp tiền hoặc tài sản thì con tin sẽ bị giết, bị đánh đập, hành hạ… Hành vi đe dọa thể hiện qua nhiều phương pháp khác nhau như: gọi điện thoại, viết thư, nhắn tin qua người khác hoặc trực tiếp gặp người thân của con tin…

Cùng với việc đe đi đe dọa, người phạm tội còn có thể có hành vi dùng vũ lực, đe dọa dùng vũ lực hoặc có những hành vi, thủ đoạn khác đối với người bị bắt làm con tin để người này sợ hãi. Để qua đó, họ yêu cầu cơ quan, tổ chức hoặc người thân của nạn nhân nộp tiền hoặc tài sản. Ví dụ, đánh, trói, dọa giết, dọa đánh, dọa đem bán ra nước ngoài, bán cho các ổ mại dâm… Đối với hành vi xâm phạm trực tiếp đến con tin, nếu cấu thành một tội độc lập thì người phạm tội còn bị truy cứu trách nhiệm hình sự về tội tương ứng với hành vi xâm phạm.

Hai là, về hậu quả của tội phạm:

Hậu quả của tội này không phải là yếu tố bắt buộc để định tội. Tức là, nếu người phạm tội chưa gây ra hậu quả nhưng có ý thức chiếm đoạt và đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin thì khi đó, tội phạm đã hoàn thành. Tuy vậy, nếu gây ra hậu quả thì tuỳ thuộc vào tính chất, mức độ nguy hiểm mà người phạm tội có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo khung hình phạt nặng hơn hoặc là tình tiết xem xét khi quyết định hình phạt.

Thứ hai, mặt chủ quan của tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản:

Một là, yếu tố lỗi: Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt được thực hiện do cố ý.

Hai là, về mục đích: Mục đích của người phạm tội là mong muốn chiếm đoạt được tài sản. Nếu hành vi bắt cóc người làm con tin lại nhằm một mục đích khác thì đó không phải tội này. Và tùy lúc, người phạm tội sẽ bị truy cứu trách nhiệm hình sự về một tội phạm tương ứng khác. Ví dụ: Để trả đũa anh A, B đã bắt cóc em trai anh lúc mới hai tuổi để anh A phải hủy chuyến đi công tác nước ngoài. Do đó, hành vi của B chỉ phạm tội bắt người trái pháp luật.

Mục đích chiếm đoạt tài sản của người phạm tội có thể có trước khi thực hiện hành vi bắt cóc, nhưng cũng có thể xuất hiện trong hoặc sau khi đã thực hiện hành vi bắt cóc người làm con tin.

Thứ ba, Chủ thể của tội phạm:

Người phạm tội là người có đủ năng lực chịu trách nhiệm hình sự và đủ độ tuổi theo quy định tại Điều 12 Bộ luật Hình sự 2015 sửa đổi, bổ sung 2017. Người từ đủ 16 tuổi trở lên sẽ phải chịu trách nhiệm hình sự về tội này. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi sẽ chỉ phải chịu trách nhiệm hình sự về Khoản 2, Khoản 3, Khoản 4 Điều 169 Bộ luật hình sự.

Thứ tư, Khách thể của tội phạm:

Nghĩa là, người phạm tội cùng một lúc xâm phạm đến hai khách thể (quan hệ sở hữu và quan hệ nhân thân). Do vậy, trong cùng một vụ án có thể có một nạn nhân hoặc nhiều hơn. Có thể có người bị hại chỉ bị xâm phạm đến tài sản nhưng cũng có người chỉ bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; hoặc cùng bị xâm phạm mọi khách thể.

Thông thường khi đó, người bị hại là người bị xâm phạm đến tính mạng, sức khỏe, nhân phẩm, danh dự; còn người bị xâm phạm tài sản lại là những người thân của nạn nhân. Tuy nhiên, cũng có trường hợp người bị bắt cóc đồng thời là người bị xâm phạm tài sản.

4. Giải thích một số tình tiết định khung tăng nặng

(1) Phạm tội có tổ chức: một hình thức đồng phạm đặc biệt. Ngoài dấu hiệu thường, tính chất này có đặc điểm của sự cấu kết chặt chẽ.

(2) Tình tiết phạm tội có tính chất chuyên nghiệp: quy định tại nghị quyết số 01/2006/NQ-HĐTP hướng dẫn áp dụng một số quy định của bộ luật hình sự thì tình tiết này được quy định như sau: Chỉ áp dụng tình tiết “phạm tội có tính chất chuyên nghiệp” khi có đầy đủ các điều kiện sau đây: Cố ý phạm tội từ năm lần trở lên về cùng một tội phạm không phân biệt đã bị truy cứu trách nhiệm hình sự hay chưa bị truy cứu trách nhiệm hình sự, nếu chưa hết thời hiệu truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc chưa được xóa án tích; Người phạm tội đều lấy các lần phạm tội làm nghề sinh sống và lấy kết quả của việc phạm tội làm nguồn sống chính.

(3) Dùng vũ khí, phương tiện hoặc thủ đoạn nguy hiểm khác như sau:

“Vũ khí” là một trong các loại vũ khí được quy định tại Khoản 1 Điều 1 Quy chế quản lý vũ khí, vật liệu nổ và công cụ hỗ trợ (ban hành kèm theo Nghị định số 47/CP ngày 12/8/1996 của Chính phủ), cụ thể bao gồm:

Vũ khí quân dụng gồm: các loại súng ngắn, súng trường, súng liên thành; các loại pháo, dàn phóng, bệ phóng tên lửa, súng cối, hóa chất độc và nguồn phóng xạ các loại đạn; bom, mìn, lựu đạn, ngư lôi, thủy lôi, vật liệu nổ quân dụng, hỏa cụ và vũ khí khác dùng cho mục đích quốc phòng – an ninh.  Vũ khí thể thao gồm: các loại súng trường, súng ngắn thể theo chuyên dùng các cỡ; các loại súng hơi, các loại vũ khí khác dùng trong luyện tập, thi đấu thể thao và các loại đạn dùng cho các loại súng thể thao nói trên.

Súng săn gồm: Các loại súng săn một nòng, nhiều nòng các cỡ, tự động hoặc không tự động, súng hơi các cỡ, súng kíp, sung hoả mai, súng tự chế và các loại đạn, vỏ đạn, hạt nổ, thuốc đạn dùng cho các loại súng kể trên.

Vũ khí thô sơ gồm: Dao găm, kiếm, giáo, mác, đinh ba, đại đao, mã tấu, quả đấm bằng kim loại hoặc chất cứng, cung, nỏ, côn các loại và các loại khác do Bộ Nội vụ quy định.

“Phương tiện nguy hiểm” là công cụ, dụng cụ được chế tạo ra nhằm phục vụ cho cuộc sống của con người (trong sản xuất, trong sinh hoạt) hoặc vật mà người phạm tội chế tạo ra nhằm làm phương tiện thực hiện tội phạm hoặc vật có sẵn trong tự nhiên mà người phạm tội có được và nếu sử dụng công cụ, dụng cụ hoặc vật đó tấn công người khác thì sẽ gây nguy hiểm đến tính mạng hoặc sức khoẻ của người bị tấn công.

Về công cụ, dụng cụ: Ví dụ: búa đinh, dao phay, các loại dao sắc, nhọn…

Về vật mà người phạm tội chế tạo ra: Ví dụ: thanh sắt mài nhọn, côn gỗ…

Về vật có sẵn trong tự nhiên: Ví dụ: gạch, đá, đoạn gậy cứng, chắc, thanh sắt…

(4) Đối với 02 người trở lên: Đối với việc bắt 02 người trở lên làm con tin.

(5) Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân: hình thức tâm lý hoặc hành vi cá biệt được cho là gây ra đau khổ, mất khả năng cư xử cũng như phát triển bình thường.

(6) Gây ảnh hưởng xấu đến an ninh, trật tự, an toàn xã hội: tạo ra sự hoang mang, lo sợ đến trật tự trị an hay làm xáo trộn trật tự nơi công cộng

(7) Tái phạm nguy hiểm: Những trường hợp sau đây được coi như vậy: Đã bị kết án về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội về tội phạm rất nghiêm trọng, tội phạm đặc biệt nghiêm trọng do cố ý; Đã tái phạm, chưa được xóa án tích mà lại thực hiện hành vi phạm tội do cố ý.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com