Nhớ rừng là một tác phẩm hay để lại cho người đọc nhiều cảm xúc qua từng câu thơ, đồng thời đây cũng là đề tài mà được sử dụng nhiêu trong các đề văn. Chính vì vậy tại bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giúp bạn phân tích chi tiết hơn về bài thơ này
1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Nhớ rừng của Thế Lữ chọn lọc hay nhất:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Hoàn cảnh ra đời:
Được viết vào năm 1934.
In trong tập “Mấy vần thơ” và xuất bản năm 1935.
Tâm trọng của hổ trong sở thú:
Tâm trạng tức giận của con hổ được thể hiện ngay trong khổ thơ đầu của bài thơ với những từ ngữ như “một khối căm thù”, “khinh thường”…
Hổ nhớ về một thời vàng son oanh liệt của mình: nhớ về khu rừng thiêng với “bóng cây cổ thụ”, với những khúc ca dữ dội của thiên nhiên và cảnh thiên nhiên hùng vĩ, tráng lệ, tươi sáng, màu sắc, âm thanh.
Cọp trở về thực tại với những tiếng thở dài ngao ngán: “Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu”.
Kết bài: đánh giá giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Những bài cảm nhận Nhớ rừng của Thế Lữ hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài cảm nhận Nhớ rừng của Thế Lữ hay nhất:
Một trong những cây bút xuất sắc có mặt từ đầu là Thế Lữ. Nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn vào sự phát triển của thơ mới, nổi bật là tác phẩm Nhớ rừng.
Trong Nhớ rừng, Thế Lữ thể hiện sự tức giận, buồn chán và khát vọng tự do cháy bỏng qua tâm trạng của con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tình cảm chung của những người yêu nước Việt Nam trong cảnh nước mất nhà tan.
Cùng chung tinh thần quật khởi ấy, Thế Lữ đã viết những dòng “Nhớ rừng”. Hãy dùng lời nói của con hổ ở sở thú để bộc lộ tâm trạng của bản thân. Thế Lữ đã xác lập lối tả thực ẩn chứa rất chân thực. Tất cả những hình ảnh đề cập trong bài đều là không gian xung quanh cuộc sống của con hổ.
Việc con hổ bị nhốt trong cũi sắt và nó cảm thấy cuộc sống của nó đầy uất hận trong cảnh nuôi nhốt, cảnh “tầm thường giả dối” ở vườn thú. Vì vậy, nó cảm thấy hoài niệm về quá khứ huy hoàng ở vùng núi hùng vĩ. Đây là hai khung cảnh hoàn toàn đối lập giữa hiện thực và quá khứ.
Hổ vốn được coi là chúa tể của muôn loài nhưng nay vì sự thu mình mà phải sống “nhục nhã” trong cũi sắt. Không gian sống của chúa sơn lâm bị thu hẹp lại và từ đó trở thành một thứ “trò chơi” trong mắt mọi người. Với nó, cuộc sống giờ đây trở nên vô vị vì sống ở đâu chẳng bằng làm chúa sơn lâm.
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”
Con hổ cảm thấy bất lực vì không có lối thoát trong cuộc sống tù túng nên nhìn thời gian vô vọng. Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, những người thuộc diện “thánh vật” luôn biết thân phận thực sự của mình là thần thánh.
Thật thất vọng biết bao khi phải sống chung với “gấu điên”, với “báo chí vô tội bên mình”! Làm sao chịu nổi một kiếp chấp nhận số phận của “những người bạn” cùng cảnh ngộ. Chính nỗi buồn, sự tức giận dồn nén tạo nên sự thù hận chất chứa trong lòng. Mệt mỏi, mệt mỏi, bất lực! Đứng trước hoàn cảnh đáng thương ấy, hổ nghĩ về kiếp trước huy hoàng của mình:
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội”
Cọp ngậm ngùi nhớ lại thời “ông chủ” nơi “bóng cây cổ thụ”. Đó là nỗi nhớ rừng thẳm. Nhớ rừng là nhớ tự do, nhớ “thời oanh liệt”, nhớ cái cao siêu, chân thực, tự nhiên. Ở nước non hùng vĩ ấy, giữa cuộc đời, mãnh hổ đang thống trị một thế lực.
Bản lĩnh của một vị vua sơn cước luôn xứng với quyền lực tối cao với sức mạnh to lớn. Những gì nó phải làm là làm cho mọi thứ sợ hãi được chế ngự. Ở đó, con hổ hiện lên với tư thế kiêu hãnh, ngạo nghễ nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp uy nghiêm giữa núi rừng hùng vĩ:
“Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật phải im hơi
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi”
Vẻ đẹp thực sự của hổ là đây! Từng bước đi, từng bộ phận trên cơ thể, từng ánh nhìn đều gợi lên vẻ uy nghi thanh tao mà mềm mại. Trong từng pha hành động, những con vật kia đều thể hiện sức mạnh đỉnh cao khiến ai cũng phải “câm nín”. Cuộc sống tự do trong rừng mãi mãi là một điều cao quý. Có những con hổ thực sự tận hưởng cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên ban tặng. Đó là giây phút hổ “mê mẩn” nhìn sự đổi thay của “giang sơn” muốn chiếm lấy “phần bí mật”.
Những cảnh tượng đó chỉ để lại cho con hổ một cảm giác tiếc nuối, ngột ngạt bởi những cảm xúc mạnh mẽ, chất chứa những câu hỏi đau đớn. Nỗi hoài niệm dài, xúc động về quá khứ tươi đẹp đã khép lại giấc mộng huy hoàng trong tiếng kêu đau đớn:
“Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu”
Sống lại với những kí ức tươi đẹp nơi núi rừng hùng vĩ, con hổ chợt nhận ra sự tầm thường giả dối của cảnh vật nơi nó sống. Trong sự kiêu ngạo của hổ là những cảnh “không bao giờ thay đổi”, những cảnh đơn điệu nhàm chán mà mọi người chỉnh sửa và cố gắng “bắt chước”.
Chúa sơn lâm tỏ ra khinh bỉ, coi thường những cảnh vật thấp hèn, nhỏ mọn do con người tạo ra. Đó không phải là một nơi xứng đáng để sống như một người cai trị. Dù có cố sửa chữa đến đâu cũng chỉ là “dải nước đen không chịu chảy” dưới những “gò thấp”, là “hoa, cỏ, đường trơn”. Vạn vật” chẳng có gì là “bí hiểm” “hoang dã”… Những cảnh đời ngụy trang ấy khiến hổ càng thêm tiếc nuối khi nhớ về “thiên niên vạn đại”.
Chán ghét cuộc sống thực tại, mang trong mình mối hận thường trực, con hổ khao khát mãnh liệt một cuộc sống tự do. Mọi cảm xúc của con hổ đều thuộc về khu rừng ngàn năm tăm tối. Qua đó, chúa sơn lâm gửi gắm thông điệp nghiêm túc về núi rừng.
Dù sa sút nhưng con hổ không giấu được niềm tự hào khi đến với “nước non mạnh”. Giang sơn là nơi những con hổ đã có một ngày vùng vẫy trong một không gian rộng rãi, riêng biệt. Mặc dù bây giờ chúng sẽ không bao giờ được sống lại ở cùng một nơi, nhưng con hổ vẫn nghĩ về “ước mơ lớn”. Vị thần bị thất sủng xin sống mãi trong ký ức:
“Để hồn ta phảng phất được gần người
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi”
Nỗi lòng con hổ là lời tâm sự của chàng trai Thế Lữ đang mơ về kiếp người tươi đẹp đã qua. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết thơ Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ mới đều mang trong mình khát vọng sống của con người.
Nhớ Rừng lúc ấy không khỏi buồn bã. Nhưng bài thơ đặc sắc bởi nó tạo được điểm gặp gỡ giữa sự căm phẫn của kẻ thua cuộc và sự bất lực của tầng lớp trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi dậy khát vọng tự do chính đáng.
Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ rừng đã lan tỏa một hồn thơ và những hình ảnh thơ ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là thể hiện trí tưởng tượng phong phú khi mượn hình ảnh con hổ trong sở thú để kể về bí mật sâu kín của mình. Qua đó thể hiện sự căm ghét cuộc sống tù túng, đồng thời khơi dậy tình cảm yêu nước của nhân dân lúc bấy giờ.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài cảm nhận Nhớ rừng của Thế Lữ hay nhất:
Thế Lữ được biết đến là một trong những nhà thơ tiêu biểu của phong trào Thơ mới. Trong sự nghiệp sáng tác của mình, ông đã để lại cho nền thơ ca Việt Nam nhiều bài thơ đặc sắc. “Nhớ rừng” là một trong những tác phẩm như thế.
Bài thơ được viết năm 1934, đến năm 1935 được in trong tuyển tập “Mấy vần thơ”. Trong bài thơ, Thế Lữ đã mượn lời của nhân vật chính là một con hổ bị nhốt trong vườn bách thú để nói lên sự tù túng, căm hận vì bị kìm hãm không được tự do.
Mở đầu bài thơ là sự căm giận và phẫn uất tột độ của con hổ:
“Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua”
Con hổ vốn luôn được mệnh danh là chúa sơn lâm nay đã bị nhốt trong “lồng sắt”. Nó đang mất tự do, bị con người kiểm soát, không còn lang thang khắp nơi nữa. “Hận” là nỗi sầu muộn, căm hận đến cùng cực của con hổ, cách dùng từ “hận” không chỉ diễn tả sự nặng nề của tâm trạng mà chính cảm giác tù túng ấy đã tích tụ lâu ngày trong con hổ. Cọp khiến nó muốn “gặm”, muốn cắn, muốn gặm nhấm nỗi uất hận trong lòng. Hoàn cảnh sống của con hổ được bộc lộ ngay từ những câu thơ đầu tiên, sau đó là tư thế nằm dài của một chúa sơn lâm giữa rừng xanh. Tuy nhiên, giờ đây chú hổ phải sống trong lồng sắt, ngày qua ngày sống cuộc sống tẻ nhạt, buồn tẻ. Nó cũng phải cảm thấy tiếc cho tình trạng của nó:
“Nay xa cơ bị nhục nhằn tù hãm,
Để làm trò lạ mắt, thứ đồ chơi,
Chịu ngang bầy cùng bọn gấu dở hơi,
Với cặp báo chuồng bên vô tư lự”
Hổ đau lòng khi là chúa sơn lâm nhưng nay lại bị nhốt trong cũi sắt, trở thành “trò chơi xa xỉ”, “đồ chơi” và nhất là ngang hàng với các loài vật khác. Con hổ không còn là mình, không còn được sống cuộc đời của mình, nó đã đánh mất cái tôi kiêu hãnh, oai phong của mình để sống một cuộc đời tẻ nhạt. Đây là tâm trạng điển hình của bất kỳ ai bị cuốn vào sự tự do ngột ngạt. Đặt thời điểm bài thơ ra đời trong hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ, năm 1934 là năm đất nước đang chịu nhiều xiềng xích nô lệ, ta càng cảm thấy đồng điệu với nỗi khổ đau, tù túng của nhân dân ta trong chế độ thực dân.
Từ hoàn cảnh sống đó, con hổ nhớ lại những năm tháng phiêu bạt của mình:
“Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa”
Cuộc sống hiện tại tù túng, gượng ép khiến hổ “sống hoài trong hoài niệm”, luôn nhớ về những tháng ngày tự do. Ngay sau đó, bức tranh núi non bao la và hình bóng chúa sơn lâm được Thế Lữ miêu tả hết sức sinh động:
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả, cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi,
Với khi thét khúc trường ca dữ dội,
Các động từ mạnh “gào”, “hét”, “thét lên” đã thể hiện niềm háo hức trước thiên nhiên, núi rừng. Nhưng bức tranh ấy dù hùng vĩ đến đâu cũng chỉ làm nền cho sự xuất hiện của con hổ:
“Ta bước chân lên, dõng dạc, đường hoàng,
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng,
Vờn bóng âm thầm, lá gai, cỏ sắc.
Trong đêm tối, mắt thần khi đã quắc,
Là khiến cho mọi vật đều im hơi”
Bằng giọng thơ khỏe khoắn, Thế Lữ đã khắc họa một chúa sơn lâm bất khả xâm phạm với những bước đi mạnh mẽ, thân hình gợn sóng và đôi mắt sáng trong bóng tối. Tư thế oai vệ đó của hổ không chỉ khiến vạn vật khiếp sợ mà còn có thể tự hào:
“Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên, không tuổi”
Khẳng định chắc nịch mình là chúa tể muôn loài đã chứng tỏ sự tự tin và bản lĩnh vô song của loài hổ. Chính cuộc sống tự do, hào hùng đó đã khiến ông cảm thấy uất hận và bị giam cầm với cuộc sống giam cầm đó. Và tất cả đã làm nên khát vọng tự do cháy bỏng ở con hổ. Nó nhớ những “đêm vàng bên suối”, nhớ những “mưa tứ phương”, nhớ những bình minh nắng chói chang, tiếng chim hót líu lo khắp rừng… Tất cả không chỉ là nỗi nhớ mà còn là nỗi đau của một chúa sơn lâm khi bị nhốt chân trong chiếc lồng sắt chật chội, ngột ngạt. Nhưng thiên nhiên dù đẹp đến đâu, vẻ đẹp ấy dù hùng vĩ đến đâu cũng chỉ là dĩ vãng, và giờ đây con hổ phải thốt lên: “Than ôi! Một thời oanh liệt nay còn đâu?”. Từ quá khứ vàng son, Thế Lữ giật mình nhìn hiện tại. Đoạn thơ khiến người đọc cảm thương cho cảnh ngộ của con hổ. Nỗi nhớ ấy khiến hổ chỉ biết “buồn ngàn thu” trước cảnh “không đổi” tẻ nhạt, vô vị. Con hổ nhớ “rừng thiêng nơi ta từng ở”, nhớ “chốn rộng rãi ta vùng vẫy năm xưa”. Bao nhiêu nỗi nhớ là bao nhiêu uất ức dồn nén của con hổ. Càng đọc tôi càng thấy xót xa cho thân phận của một chúa sơn lâm. Càng nghĩ lại càng thấy thương hoàn cảnh của nhân dân ta lúc bấy giờ.
Người ta thường nói văn chương phải bắt nguồn từ cuộc sống, phải phản ánh cuộc sống để từ văn chương người đọc có thể nhìn thấy mọi điều trong cuộc sống. “Nhớ rừng” của Thế Lữ đã làm được điều đó. Nhà thơ mượn lời con hổ để bày tỏ nỗi bức xúc, ngột ngạt của chính mình cũng như của cả dân tộc Việt Nam trước xiềng xích nô lệ, đói khổ cùng cực. Có thể nói, với thể thơ tự do, hình ảnh thơ hào hùng, tráng lệ, Thế Lữ đã xây dựng thành công hình ảnh chúa sơn lâm đầy ám ảnh trong lòng người đọc.
Người ta nói “Nhớ rừng” là khát vọng sống, khát vọng tự do quả không sai bởi bài thơ còn chứa đựng trong nó khát vọng tự do của cả một dâ,n tộc, đồng thời nó cũng thầm bộc lộ tình yêu đối với người dân với quê hương đất nước.
3. Bài mẫu cảm nhận bài thơ Nhớ rừng đạt điểm cao nhất:
Một trong những cây bút xuất sắc có mặt từ đầu là Thế Lữ. Nhiều tác phẩm của ông đã góp phần to lớn vào sự phát triển của thơ Mới, tiêu biểu nhất là tác phẩm Nhớ rừng.
Trong Nhớ rừng, Thế Lữ thể hiện một tâm hồn u uất, chán nản và khát vọng tự do cháy bỏng qua lời tự sự của một con hổ trong vườn bách thú. Đó cũng là tâm tình chung của những người yêu nước Việt Nam trong cảnh nước mất nhà tan.
Những ngày đầu mới ra đời, phong trào Thơ mới đã có những bước phát triển cả về phong cách lẫn nội dung. Theo các giai đoạn phát triển, Thơ Mới đã thoát dần khỏi tính quy phạm chặt chẽ và hệ thống ước lệ “vô ngã” của thơ cổ điển. Các nhà thơ đã khám phá thế giới bằng những giác quan và cảm xúc rất thực của mình. Đó cũng là lúc cái tôi mạnh mẽ xuất hiện trong thơ. Ở đó có sự trỗi dậy của những cảm xúc mãnh liệt của con người vượt ra ngoài hiện thực khách quan. Vì vậy, thơ Mới có xu hướng thoát ly hiện thực, thể hiện sự bất mãn, bất lực trước hiện thực xã hội. Qua đó, Thơ Mới cũng thể hiện sự phản kháng quyết liệt trước cái hiện thực giả dối, tầm thường đang giam cầm ước mơ của con người.
Cùng chung thái độ phản kháng, Thế Lữ đã viết những dòng cảm xúc trong bài “Nhớ rừng”. Hãy dùng lời nói của con hổ ở sở thú để bộc lộ tâm trạng của bản thân. Thế Lữ đã tạo nên một khung cảnh vừa rất thực, vừa ẩn chứa những bí mật sâu kín. Tất cả những hình ảnh đề cập trong bài đều là những không gian xoay quanh cuộc sống của con hổ. Sự thật là con hổ đang bị nhốt trong cũi sắt và nó cảm thấy cuộc sống của mình chứa đựng sự u uất, buồn chán trong cảnh giam cầm chật chội, những cảnh “tầm thường giả dối” ở sở thú. Vì vậy, nó cảm thấy hoài niệm về quá khứ huy hoàng ở vùng núi hùng vĩ. Đó là hai khung cảnh hoàn toàn đối lập giữa hiện tại và quá khứ.
Hổ vốn là loài động vật được coi là chúa tể muôn loài nhưng nay vì thói ăn chơi trác táng mà phải sống “nhục nhã” trong lồng sắt. Không gian sống của chúa sơn lâm bị thu hẹp và từ đó bị biến thành “trò chơi xa xỉ”, thành thứ “đồ chơi” trong mắt mọi người. Đối với Hổ, cuộc sống bây giờ thật vô vị bởi nó đang sống ở một nơi không xứng với địa vị của một vị chúa sơn lâm.
Gậm một khối căm hờn trong cũi sắt
Ta nằm dài trông ngày tháng dần qua
Hổ cảm thấy bất lực vì không có lối thoát khỏi cuộc sống tù túng nên đành nhìn thời gian trôi qua vô ích. Nhưng trong bất cứ hoàn cảnh nào, người của “giống hùm thiên” luôn biết thân phận thực sự của mình là vị chúa. Thật uất ức biết bao khi phải sống chung với “gấu điên”, với “đôi báo hoa mai vô tư trốn chuồng”! Làm sao chịu nổi cảnh đành cam chịu số phận của những “người bạn” cùng cảnh ngộ. Chính nỗi buồn, sự uất ức dồn nén đã tạo nên mối hận chất chứa trong lòng mệt mỏi, chán chường, bất lực!Trong hoàn cảnh đáng thương ấy, hổ nghĩ về quá khứ huy hoàng của mình:
Ta sống mãi trong tình thương nỗi nhớ
Thuở tung hoành hống hách những ngày xưa
Nhớ cảnh sơn lâm bóng cả cây già
Với tiếng gió gào ngàn, với giọng nguồn hét núi
Với khi thét khúc trường ca dữ dội
Con hổ nuối tiếc một thời “làm trùm” trong “bóng cây cổ thụ”. Đó là nỗi nhớ rừng thẳm. Nhớ rừng là nhớ tự do, nhớ “một thời oanh liệt”, nhớ những gì cao cả, chân thật, tự nhiên. Trên đất nước hùng vĩ ấy, giữa đời thường, con hổ đang ngự trị một thế lực. Bản lĩnh của một vị vua sơn lâm luôn thể hiện quyền lực tối cao với sức mạnh phi thường. Điều nó cần làm là khiến mọi thứ phải sợ hãi và khuất phục. Ở đó, con hổ hiện ra với tư thế kiêu hãnh nhưng vẫn toát lên vẻ đẹp uy nghiêm giữa núi rừng hùng vĩ:
Ta bước chân lên dõng dạc đường hoàng
Lượn tấm thân như sóng cuộn nhịp nhàng
Vờn bóng âm thầm lá gai cỏ sắc
Trong bóng tối mắt thần khi đã quắc
Là khiến cho mọi vật phải im hơi
Ta biết ta chúa tể của muôn loài
Giữa chốn thảo hoa không tên không tuổi
Vẻ đẹp thực sự của hổ là đây! Từng bước đi, từng dáng người, từng ánh mắt đều toát lên vẻ uy nghiêm tao nhã mà dịu dàng. Trong từng hành động, con quái thú kia đều phô diễn sức mạnh tột đỉnh khiến ai cũng phải “câm nín”. Sống tự do mãi mãi giữa rừng rậm là một điều rất cao quý. Ở đó con hổ thực sự tận hưởng cuộc sống tươi đẹp mà thiên nhiên đã ban tặng. Đó là những lúc hổ “mê mẩn”, ngắm nhìn sự đổi thay của “giang sơn”, say ngủ và muốn chiếm lấy “phần bí mật” của mình.
Nơi đây đã được an nhàn trên chính quê hương mình và khẳng định giá trị sống đích thực với phong cảnh nên thơ, hữu tình. Nhưng bây giờ, tất cả những gì còn lại là một ký ức của quá khứ. Hổ sẽ không bao giờ được thấy “đêm vàng bên suối”, thấy cảnh “mưa hóa ngàn thu”, nghe tiếng chim hót, được đắm mình trong cảnh “bình minh cây xanh nắng vàng” gột rửa”, chờ đợi “hoàng hôn” của buổi chiều “nhuộm máu sau rừng”, những cảnh tượng ấy chỉ để lại trong lòng con hổ một cảm giác tiếc nuối, xen lẫn những cảm xúc mạnh mẽ, choáng ngợp của những câu hỏi đau xót, quá khứ khép lại giấc mộng huy hoàng trong tiếng than thở thê lương:
Than ôi! Thời oanh liệt nay còn đâu
Được sống lại với những kỉ niệm đẹp đẽ nơi núi rừng hùng vĩ, con hổ chợt nhận ra sự tầm thường giả dối của cảnh vật nơi nó sống. Trong cái nhìn kiêu kỳ của hổ là những cảnh tượng “không bao giờ thay đổi”, những cảnh tượng đơn điệu mà con người đã chỉnh sửa và cố gắng “bắt chước”. Chúa sơn lâm tỏ ra khinh bỉ, ghê tởm trước cảnh giả dối nhỏ bé, thấp hèn do con người tạo ra. Đó không phải là nơi xứng đáng cho cuộc sống của một người cai trị. Cố sửa chữa bao nhiêu cũng chỉ là “những dải nước đen vờn như suối không có suối” nhô lên dưới những “gò thấp”, “hoa, cỏ xén, đường phẳng, cây cỏ” cũng vô ích. là “bí ẩn” “hoang dã”. Những cảnh đời giả tạo ấy khiến con hổ càng ân hận hơn trong “nghìn năm âm u”.
Chán ghét cuộc sống hiện thực, ôm nỗi oán hận không nguôi, hổ khao khát cuộc sống tự do. Tất cả những suy nghĩ và cảm xúc của con hổ thuộc về khu rừng tối tăm của hàng ngàn năm. Qua đó, chúa sơn lâm gửi gắm thông điệp tha thiết của mình về núi rừng. Dù ở thế yếu nhưng hổ không giấu được vẻ tự hào khi đến với “nước non hùng mạnh”. Giang sơn ấy là nơi hổ đã có những tháng ngày tươi đẹp, tự do vùng vẫy trong một không gian riêng biệt. Dù bây giờ sẽ không bao giờ được sống ở chốn cũ ấy nữa, hổ vẫn nghĩ về “giấc mơ lớn”. Vị chúa bị truất ngôi thề sống mãi trong ký ức, hoài niệm về những mỹ nhân đã ra đi không bao giờ trở lại:
Để hồn ta phảng phất được gần người
Hỡi cảnh rừng ghê gớm của ta ơi
Trái tim của hổ là trái tim của chàng trai Thế Lữ luôn mơ về cuộc sống tươi đẹp trong quá khứ. Đó cũng là tinh thần chung của hầu hết thơ Thế Lữ cũng như trong phong trào Thơ mới, mang trong mình khát vọng được sống là chính mình.
Nhớ rừng không khỏi chạnh lòng, “tâm bệnh thời đại” lúc bấy giờ. Nhưng bài thơ đặc sắc bởi nó tạo được điểm gặp gỡ giữa nỗi buồn của người dân mất nước với nỗi bất an, bất lực trước thực tại của thế hệ thanh niên trí thức tiểu tư sản. Qua đó khơi dậy khát vọng tự do chính đáng.
Giàu cảm hứng lãng mạn và cảm xúc mãnh liệt, Nhớ rừng đã lan tỏa một hồn thơ khẩn thiết và những hình ảnh thơ ấn tượng miêu tả vẻ đẹp hùng vĩ của núi rừng. Thành công của Thế Lữ là ông đã thể hiện được trí tưởng tượng phong phú của mình khi mượn hình ảnh con hổ trong vườn bách thú để nói hộ những tâm sự thầm kín của mình. Qua đó thể hiện sự khinh thường cảnh sống tù túng, đồng thời khơi dậy tình cảm yêu nước của nhân dân lúc bấy giờ.