Trái tim của người phụ nữ khi yêu thật đáng yêu và cũng phức tạp biết bao. Xuân Quỳnh hiểu được cảm giác đó, và cô đã lột tả nó rất rõ trong bài thơ Sóng, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu một số bài cảm nhận Sóng hay nhất.
1. Dàn ý cảm nhận bài thơ Sóng của Xuân Quỳnh:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
– Khổ 1:
Sử dụng nghệ thuật tương phản: dữ dội – êm dịu, ồn ào – lặng lẽ, qua đó khái quát trạng thái đối lập của sóng, gợi nhớ tâm lí người con gái khi yêu (lúc mãnh liệt, lúc dịu dàng).
Nghệ thuật nhân hóa: “sông không hiểu nổi mình” bản chất của sóng nên “sóng” muốn tìm đến không gian rộng lớn, hành trình của sóng là hành trình khám phá bản thân, khát khao vươn tới giá trị cuối cùng trong tình yêu của một người phụ nữ.
– Khổ 2:
“Ôi con sóng ngày xưa và ngày sau”: dù xưa hay nay, sóng luôn dạt dào, rạo rực, luôn khát vọng. Đó cũng là khát vọng và bản chất muôn thuở của người phụ nữ.
“Khát vọng trong tình yêu bồi hồi trong ngực trẻ”: liên hệ tình yêu của tuổi trẻ với sóng biển, khát vọng tình yêu là đặc trưng muôn thuở của tuổi trẻ.
Khổ 3: Điệp ngữ “em nghĩ về” và câu hỏi: “Sóng từ đâu đến” nhấn mạnh khát khao nhận ra mình, người đang yêu và ý thức về tình yêu vĩnh cửu.
Khổ 4: Xuân Quỳnh dựa vào quy luật tự nhiên để tìm về ngọn nguồn của sóng, của tình yêu, gợi niềm trăn trở về sự bí ẩn của tình yêu, sự khởi đầu của tình yêu.
– Khổ 5:
Nghệ thuật tương phản gợi ra những phạm vi không gian khác nhau “dưới lòng đất”, “trên mặt nước”, những phạm vi thời gian khác nhau: “ngày” – “đêm”, nghệ thuật nhân hóa: “ngày đêm không ngủ” thể hiện nỗi nhớ da diết, triền miên của sóng và bờ còn là nỗi nhớ của người con gái khi yêu.
Người phụ nữ bộc lộ nỗi nhớ một cách trực tiếp, mạnh dạn, chân thành “Lòng em nhớ anh”, cách nói “Dẫu trong mơ cũng thức” cho thấy nỗi nhớ đã ăn sâu vào tiềm thức, thường trực trong tâm khảm. nghĩ.
– Khổ 6:
Nghệ thuật tương phản “tiến – nghịch”, phép hoán dụ “dù”, “vẫn”, “về” gợi hành trình của sóng giữa biển lớn cũng như hành trình tình yêu của người phụ nữ giữa cuộc đời.
Lời thề chung thủy, niềm tin chờ đợi của người phụ nữ trong tình yêu dù ở đâu cũng “hướng về anh một hướng”, hết lòng nghĩ về người mình yêu.
– Khổ 7: Khẳng định quy luật muôn đời của tự nhiên “không con nào không đến bến bờ… Dù muôn vàn chông gai”, cũng như “em” dù khó khăn thử thách vẫn luôn hướng về “anh”.
– Khổ 8:
“Cuộc đời tuy dài thế/ Năm tháng vẫn trôi qua”: cảm giác cô đơn bé nhỏ trước cuộc đời, nỗi băn khoăn về sự hữu hạn của tình yêu trước thời gian vô hạn.
“Như biển… bay đi”: cảm thấy bất an trước sự dễ thay đổi của lòng người giữa muôn vàn khó khăn. Nhưng đây cũng là vượt qua sự lo lắng và đặt niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh của tình yêu giống như những đám mây có thể vượt qua biển cả.
– Khổ 9:
“Bao” gọi nỗi băn khoăn, trăn trở, khát khao được hóa thân thành “trăm con sóng nhỏ” cứ vỗ vào bờ.
Đó là khát vọng của người phụ nữ được sống trong “biển lớn tình yêu” với tình yêu và với tình yêu, khát vọng hòa nhập tình riêng trong một tình chung rộng lớn.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Những bài cảm nhận Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – bài cảm nhận Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất:
Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ trẻ thiếu nhi thời chống Mỹ. Thơ của nhà thơ dễ đi vào lòng người bằng vẻ đẹp giản dị mà đằm thắm. Trong đó “Sóng” là bài thơ nổi bật của đời thơ Xuân Quỳnh.
Trong bài thơ có hai hình ảnh trung tâm là sóng và em. Sóng trước hết là một hiện tượng tự nhiên, nhưng hình ảnh này không chỉ có ý nghĩa hiện thực mà còn có ý nghĩa tượng trưng. Không chỉ có sóng biển mà trong biển còn có sóng tình yêu mở cửa trái tim phụ nữ. Tác giả mượn sóng để nói lên nỗi niềm trong lòng người con gái đang yêu. Hình ảnh “em” là hóa thân của cái tôi Xuân Quỳnh. Nữ ca sĩ đã trải lòng trên những trang thơ, bày tỏ những cảm xúc, suy nghĩ của mình trong tình yêu. Wave và tôi đều tồn tại bên cạnh nhau, phản chiếu lẫn nhau và đôi khi hợp nhất thành một.
Bài thơ “Mạnh mẽ và dịu dàng…Khi ta yêu nhau”. Đây là những dòng đầu tiên của bài thơ “Sóng” mà nhà thơ đã khắc họa hình ảnh sóng và hình ảnh những đứa trẻ để nói lên nỗi lòng của nhà thơ. Hai câu đầu của bài thơ tác giả đã thể hiện những trạng thái cảm xúc trái ngược nhau của sóng: có lúc dữ dội xô bờ, có lúc lại chảy chầm chậm, nhẹ nhàng. Đó cũng là những cảm xúc của người con gái khi yêu. Trong tình yêu, đôi khi người con gái nồng nàn, say đắm nhưng cũng có lúc lại rụt rè, dè dặt. Các trạng thái này đối lập nhau nhưng lại thống nhất với nhau. Hai câu thơ trên tương phản tạo nên một cấu trúc cân đối, hài hòa làm nổi bật tính chất đa dạng, nhất quán của sóng. Tác giả đặt các tính từ “êm dịu”, “yên tĩnh” ở cuối câu thơ vì đây là làn sóng nữ tính.
“Sông không hiểu nổi mình/Sóng tìm ra tận bể”
Việc nhân cách hóa đã thổi sức sống vào làn sóng để biến nó thành con người. Sóng không chấp nhận giới hạn chật chội, khi không hiểu sóng, khi không tìm được sự đồng điệu, sóng tìm về đại dương bao la. Trong tình yêu, phụ nữ cũng không chấp nhận những điều tầm thường, hạn hẹp mà thường hướng tới những điều cao cả, vĩ đại, thường muốn vươn tới những khát vọng vô biên.
Ở câu thơ tiếp theo, tác giả dùng quy luật của sóng để nói về quy luật của tình yêu. “Ôi con sóng ngày xưa… trong lồng ngực trẻ”. Sóng vỗ bờ từ ngàn xưa cho đến nay và mãi về sau. Đó là quy luật bất biến của tự nhiên. Tình yêu cũng vậy, trước đây, bây giờ và mãi mãi về sau vẫn khơi dậy những khao khát bồi hồi, rạo rực. Chỉ cần còn con người trên đời, tình yêu sẽ tồn tại như một món quà tuyệt vời mà thượng đế ban tặng cho loài người.
Nhân vật trữ tình đứng trước biển với những suy nghĩ sâu xa:
“Trước muôn trùng sóng bể
…
Từ nơi nào sóng lên”
Cô gái đang nghĩ về mình, nghĩ về người yêu và cũng nghĩ về sóng biển. Nhân vật trữ tình đang đi tìm lí giải nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu
“Em” không phải truy tìm nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu. Tình yêu kỳ diệu, bí ẩn như thế giới tự nhiên. Đó là những rung động của trái tim mà có những lúc lý trí không thể can thiệp cũng như không thể lý giải. Tình yêu luôn là một câu hỏi, một ẩn số khó tìm ra lời giải đáp rõ ràng. Tác giả cũng phải thú nhận rằng “Tôi cũng không biết nữa. Khi nào thì chúng ta yêu nhau”. Chính cái không biết đó là minh chứng cho một tình yêu chân chính, say đắm, vô ngại, một người phụ nữ chỉ đi theo sự dẫn dắt của tâm hồn mình.
Đoạn thơ trên đã khắc họa sinh động hình ảnh sóng và em. Thông qua hình ảnh sóng tác giả muốn nói lên quy luật muôn thuở của tình yêu. Đoạn thơ trên được thể hiện rất thành công với thể thơ 5 câu. Những câu thơ năm chữ nối tiếp nhau như những đợt sóng bất tận, trôi dạt giữa đại dương.
2.2. Bài mẫu 2 – bài cảm nhận Sóng của Xuân Quỳnh hay nhất:
Chúng ta đã từng biết đến những vần thơ tình vội vàng, vội vàng của ông hoàng thơ tình Xuân Diệu: “Hôn nhau hoài/ Mãi mãi/ Cho đến khi đất trời tan biến”. Nhưng cũng không thể không nhắc đến một Xuân Quỳnh với tình yêu dịu dàng mà sâu lắng, khắc khoải của người con gái. Tình yêu ấy đã được thể hiện đầy đủ và trọn vẹn trong bài hát: “Sóng”.
Bài thơ được in trong tập “Hoa dọc chiến hào” được chị viết khi đứng trước biển Diêm Điền. Lúc này Xuân Quỳnh 25 tuổi, vừa trải qua một lần đổ vỡ trong tình yêu. Phụ nữ tuổi này có những suy nghĩ rất chín chắn về tình yêu. Mặt khác, người ta cũng có thể thấy một ý thức về “tôi” bên cạnh bản ngã bình thường. Tác giả cũng không đặt tình yêu trong mối quan hệ tình cảm một chiều mà thể hiện khát khao tình yêu như một nhu cầu tự nhận thức và khám phá.
Bài thơ mở đầu bằng hai câu kết cấu giống nhau tạo nên những làn sóng vừa nhẹ nhàng vừa mạnh mẽ: “Dữ dội mà êm dịu/ Ồn ào mà lặng lẽ”. Đoạn thơ tạo thành hai cặp đối lập “dữ dội/ồn ào” và “êm dịu/lặng lẽ”, chỉ với bốn tính từ nhưng Xuân Quỳnh đã diễn tả đầy đủ các cung bậc khác nhau của sóng. Đây cũng là cung bậc cảm xúc của người con gái khi yêu. Xuân Quỳnh ngắt 2/3 câu thơ, đồng thời với sự quay của kim đồng hồ, nhìn thấy sự đối lập trong trạng thái của sóng, cũng là trạng thái của mình, với liên từ “và” khẳng định. Tuy là những tình cảm trái ngược nhau nhưng chúng luôn tồn tại song song với nhau, không mâu thuẫn mà đan xen, vận động và biến đổi. Đó là những cảm xúc phức tạp trong tâm hồn người con gái đang yêu.
Chuyện tình ít ai có thể hiểu sâu, thấu đáo, nhưng cô gái ở đây không chịu những yếu tố mơ hồ đó, cô quyết tâm từ bỏ không gian nhỏ, đến với không gian rộng lớn:
Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể
Đây quả thực là một quyết định vô cùng táo bạo và quyết liệt của cô gái. Khác với cô gái trong xã hội xưa luôn rụt rè, nhút nhát không dám quyết định cuộc đời mình. Và cô gái đã chủ động đi tìm câu trả lời, đi tìm hạnh phúc.
Khao khát được yêu là khát khao muôn thuở, nhất là ở tuổi trẻ. Xuân Diệu từng viết rằng: “Có thể sống mà không yêu/ Không nhớ không thương một người”. Tình yêu là nhu cầu tất yếu của con người và cô gái trong bài thơ cũng vậy, nỗi nhớ trong lồng ngực non nớt luôn thổn thức và cháy bỏng. Các từ “ngày xưa”, “ngày sau” khẳng định sự trường tồn vĩnh cửu của sóng cũng như sự trường tồn, bất diệt của tình yêu:
“Nỗi khát vọng tình yêu
Bồi hồi trong ngực trẻ”
Trong bất cứ vấn đề nào của cuộc sống, con người luôn có nhu cầu giải mã, lý giải chúng và trong tình yêu cũng không ngoại lệ: “Trước muôn trùng sóng bể/…/ Khi ta đã yêu”. Hình ảnh sóng được Xuân Quỳnh sử dụng để miêu tả bản chất của tình yêu là một bí ẩn không thể giải thích được. Có một sự tương phản rất rõ nét giữa nàng với muôn vàn lớp sóng, nàng nhỏ bé, mong manh, hữu hạn trước sự vô biên, bao la của vũ trụ đã dấy lên trong lòng nàng những suy tư, trăn trở cô gái đang yêu. Điệp ngữ “em nghĩ” được lặp lại hai lần nhấn mạnh yêu cầu khám phá, lí giải. Ý tôi là biển lớn “Sóng từ đâu đến?” và câu trả lời là “Sóng bắt nguồn từ gió”; Anh nghĩ về em và anh, câu hỏi muôn thuở: “Bao giờ mình yêu nhau?”, và câu trả lời chính xác: “Em cũng không biết”. Đúng là tình yêu không thể cân đo đong đếm được, chính xác từng giây từng phút, tình yêu giống như cơn mưa rào bất chợt ập đến khiến ta bất ngờ và hạnh phúc. Hai câu hỏi của nhân vật trữ tình đan xen, quyện vào nhau, chúng như hòa vào làm một. Nếu có thể giải thích được nguồn gốc của sự sống thì không thể giải thích được nguồn gốc của tình yêu. Đó là một điều kỳ lạ, bí ẩn, đây cũng chính là yếu tố tạo nên sức hút cho tình yêu.
Sóng có lúc êm đềm, có lúc dâng trào, cũng như những cung bậc cảm xúc trong tình yêu: Con sóng dưới đáy sâu. Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo của bài thơ này, nó gắn liền với không gian “dưới vực thẳm”, “trên mặt nước”, với “bờ”; nó trùm lên cả quãng thời gian “ngày đêm trằn trọc không ngủ được”, xâm chiếm tâm hồn con người, cả trong vô thức “Lòng anh nhớ em/ Cả trong mơ anh thao thức”. Một từ “nhớ” đã diễn tả trọn vẹn tình yêu mà anh dành cho em. Đồng thời đây là khổ thơ duy nhất trong bài có tới 6 câu nên đã góp phần thể hiện nỗi nhớ da diết trong tình yêu.
Nỗi nhớ nhung, khắc khoải song hành với sự thủy chung, sắt son trong tình yêu của nhân vật trữ tình: “Dù phương Bắc/…/ Về anh một phương”. Miền Bắc và miền Nam là hai nơi cách nhau hàng ngàn cây số, dùng hai danh từ này để diễn tả khoảng cách, khoảng cách. Đặc biệt trong cách dùng từ Nam Bắc dường như ám chỉ sự xa cách, hoang mang, đổi thay của cuộc đời. Nhưng đối lập với hằng số đó là hằng số “Nơi em nghĩ/ Về anh một hướng”. Đó là một biểu hiện của lòng trung thành và thủy chung.
“Ở ngoài kia đại dương
Trăm ngàn con sóng đó
Con nào chẳng tới bờ
Dù muôn vời cách trở”
Trong khổ thơ, Xuân Quỳnh vận dụng rất sáng tạo hình ảnh ẩn dụ “sóng – bờ” ở đây được sử dụng rất mới mẻ, tuy đã được nhắc đến nhiều lần trong ca dao, thơ xưa. Nếu trong ca dao, sóng/đò/đò là ẩn dụ cho người con trai thì bờ/bến là ẩn dụ cho người con gái. Ở đây, “sóng” là hình ảnh người con gái, “bờ” là sự đoàn tụ vui vẻ. Như vậy, trong khổ thơ ta không chỉ thấy được vẻ đẹp của một tình yêu mãnh liệt, thủy chung mà còn thấy được sự chủ động mạnh mẽ của cô gái khi yêu.
Từ bỏ sự tù túng, cô bé Xuân Quỳnh hướng tới cái gì lớn lao hơn, cao đẹp hơn, đó là khát vọng hiến dâng và bất tử cho tình yêu. Khổ thơ thứ tám vừa là sự suy tư về không gian, thời gian nhưng đồng thời cũng thể hiện những cảm nhận trong tình yêu và khát vọng được tan biến, hiến dâng trọn vẹn trong tình yêu. Nhà thơ khao khát tình yêu của mình hòa nhịp với tình yêu của người khác. “Hòa tan” không phải là mất đi mà là sự hài hòa giữa cái chung và cái riêng. Tình yêu như vậy không bao giờ đơn độc.
Đoạn thơ tạo nên hình tượng sóng độc đáo, giàu ý nghĩa tượng trưng. Kết hợp với cấu trúc song song giữa “sóng” và “em” khi đan xen, hòa quyện làm một, tách biệt, độc lập để nhìn, cảm nhận và phản ánh lẫn nhau. Hình ngũ ngôn có nhịp điệu, ngôn ngữ tinh tế, giàu cảm xúc đã góp phần tạo nên thành công cho tác phẩm.
Với hình ảnh “sóng” giàu sức biểu cảm và trên cơ sở phát hiện sự giống nhau của “sóng” và “em”, Xuân Quỳnh đã thể hiện chân thực, trọn vẹn tình yêu của người phụ nữ tha thiết. nồng nàn, thủy chung, muốn vượt qua những thử thách, giông bão của cuộc đời và sự hữu hạn của kiếp người để sống trọn vẹn trong tình yêu. Nó mang vẻ đẹp vừa truyền thống vừa hiện đại.
3. Bài cảm nhận Sóng của Xuân Quỳnh đạt điểm cao nhất:
Xuân Quỳnh là một trong những gương mặt tiêu biểu của thế hệ trẻ thiếu nhi thời chống Mỹ. Thơ của nữ thi sĩ dễ đi vào lòng người đọc với vẻ đẹp giản dị mà đằm thắm. Đó là những cảm xúc, suy nghĩ của một người phụ nữ luôn khao khát được yêu thương. Trong đó “Sóng” là bài thơ nổi bật của thơ Xuân Quỳnh. Đặc biệt là những dòng thơ đầu tiên: “Dữ dội và dịu dàng… Khi nào ta yêu nhau”.
Xuyên suốt trung tâm bài thơ là hình ảnh sóng và hình ảnh trẻ thơ. Cuộc sống là một hiện tượng của tự nhiên. Nhưng ẩn sâu trong đó là một cơn sóng tình, một cơn sóng lòng trong tâm hồn người phụ nữ. Hình ảnh của cô là hóa thân của nhà thơ Xuân Quỳnh. Nữ sĩ trải lòng mình trên những trang thơ, mượn hình ảnh sóng để nói lên nỗi niềm của mình.
“Dữ dội và dịu êm
Ồn ào và lặng lẽ”
Trong hai câu thơ trên, tác giả đã chỉ ra những trạng thái đối lập của sóng: có lúc mạnh mẽ, có lúc hung dữ, có lúc trôi dạt. Đó cũng là đặc điểm tâm trạng của người con gái khi yêu. Có lúc nồng nàn, say đắm, có lúc lại rụt rè. Các trạng thái đối lập nhưng thống nhất với nhau. Hai câu thơ đầu được tổ chức đối lập tạo nên một cấu trúc hài hòa, cân xứng. Tác giả đặt những tính từ như “êm dịu”, “lặng lẽ” dưới mỗi câu thơ cũng cho thấy sự nữ tính của sóng.
“Sông không hiểu nổi mình
Sóng tìm ra tận bể”
Việc nhân cách hóa đã thổi sức sống vào làn sóng để biến nó thành con người. Sóng không chấp nhận giới hạn của sự trói buộc, khi không hiểu sóng, khi không tìm được sự đồng điệu, chúng lại vươn mình tìm về đại dương bao la. Cũng giống như trong tình yêu, phụ nữ không chấp nhận những điều tầm thường, hạn hẹp mà luôn hướng tới những điều cao cả, vĩ đại.
Ở khổ thơ tiếp theo, tác giả viết:
“Ôi con sóng ngày xưa…
Bồi hồi trong ngực trẻ.”
Sóng vỗ bờ từ ngàn xưa, cho đến nay và mãi mãi. Đó là quy luật bất biến của tự nhiên. Trong tình yêu cũng có sự tương đồng khi tình yêu, sự khao khát luôn thường trực trước đây, hôm nay và mãi mãi. Chừng nào con người còn tồn tại thì tình yêu giống như món quà tuyệt vời mà thượng đế ban tặng cho loài người. Khát vọng tình yêu là khát khao muôn thuở của con người, đặc biệt là giới trẻ.
Nhân vật trữ tình đứng trước biển với những suy nghĩ sâu xa:
“Trước muôn trùng sóng bể,….Từ nơi nào sóng lên”
Người con gái đang yêu nghĩ về mình, nghĩ về người yêu và cũng nghĩ về sóng. Nhân vật trữ tình đang muốn lí giải nguồn gốc của sóng cũng như nguồn gốc của tình yêu.
“Sóng bắt đầu từ gió…Khi nào ta yêu nhau”
“Em” chưa tìm ra nguyên nhân của sóng gió, cũng như tình yêu. Tình yêu là điều kỳ diệu, nhưng cũng bí ẩn như thế giới tự nhiên. Đó là sự rung động của trái tim, có những lúc lý trí không thể chiến thắng được trái tim. Tình yêu luôn là một câu hỏi không khó nhưng cũng không dễ lý giải nguyên nhân và ngọn nguồn. Nhân vật trữ tình cũng phải thú nhận rằng “không biết/ta yêu nhau từ bao giờ”. Chính tình yêu vô tình của bạn mới là minh chứng chân thật nhất cho một tình yêu sâu đậm không toan tính. Đó là trái tim của người phụ nữ khi yêu.
Có thể thấy, câu thơ mở đầu đã khắc họa đầy đủ hình ảnh sóng và em. Sóng là tôi và tôi cũng là sóng. Sóng được cho là đại diện cho trạng thái cảm xúc của người phụ nữ khi yêu.
Qua hình ảnh sóng tác giả còn nói lên quy luật muôn thuở của tình yêu. Những câu thơ ngắn gọn về số từ, nhưng cô đọng và giàu sức gợi. Để rồi, người đọc cũng cảm thấy sóng vỗ vào lòng.