Cảm nhận đoạn 1 Bình Ngô đại cáo của Nguyễn Trãi siêu hay

“Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi được coi là bản Tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc Việt Nam, sau “Nam quốc Sơn hà” của Lý Thường Kiệt. Và đây cũng là tác phẩm bất hủ thể hiện lòng yêu nước bất khuất và tinh thần nhân nghĩa của Nguyễn Trãi cũng như của nhân dân Việt Nam.

1. Dàn ý cảm nhận đoạn 1 “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi ngắn gọn nhất:

a. Mở bài:

‐ Giới thiệu những nét chung về tác giả Nguyễn Trãi (đặc điểm  cuộc đời, con người, quan điểm sáng tác, tác phẩm tiêu biểu,…)

‐ Giới thiệu “Bình Ngô đại cáo” một cách khái quát (thể loại, cảm hứng chủ đạo, hoàn cảnh ra đời, nội dung và nghệ thuật đặc sắc,… )

‐ Giới thiệu khái quát đoạn 1 “Bình Ngô đại cáo”.

b.Thân bài:

Nêu bật ý nghĩa nhân văn độc đáo, sâu sắc

– “Nhân nghĩa” là một tư tưởng cơ bản của quan niệm Nho giáo thể hiện mối quan hệ  gắn bó giữa con người với nhau dựa trên  tình thương và đạo đức.

– Đối với Nguyễn Trãi, cốt lõi của “nhân nghĩa” là nhằm mục đích mang lại cho nhân dân cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc.

– Muốn yên dân thì phải “trừ bạo”, tức là phải đánh đuổi bọn ác ôn xâm lược nước ta và cả bọn tham lam đẩy nhân dân vào cảnh đói khổ, lầm than.

‐ Nêu lên chân lí và sự thật khách quan của dân tộc Đại Việt ta từ ngàn đời nay:

– Có nền văn hiến lâu đời, lãnh thổ phân định rõ ràng, mỗi vùng thì lại có phong tục tập quán riêng mang bản sắc riêng của dân tộc.

– Đặt các triều đại Đại Việt ngang hàng với các triều đại phong kiến ​​phương Bắc không chỉ củng cố nền độc lập của dân tộc mà còn thể hiện lòng tự hào về truyền thống và lịch sử của dân tộc.

– Liệt kê những chiến công lịch sử vẻ vang, vang dội của quân và dân tộc ta trong lịch sử.

c. Kết bài:

Tóm tắt những nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của “Bình Ngô Đại Cáo” đoạn 1 và nêu cảm nhận của bản thân.

2. Dàn ý cảm nhận đoạn 1 “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi chi tiết nhất:

a.Mở bài:

Qua “Bình Ngô Đại Cáo”, Nguyễn Trãi đã thể hiện lòng yêu nước ở một ý nghĩa mới; nhân văn, cao cả, đó là tư tưởng nhân nghĩa ở đời. Khổ thơ đầu của tác phẩm thể hiện rõ nhất điều này.

b. Thân bài:

‐ “Nhân nghĩa” nghĩa là  những việc làm vì dân, làm dân làm gốc

‐ Việc nhân nghĩa trước mắt phải lo trừ bạo

‐ Khẳng định văn hiến, chủ quyền lãnh thổ, phong tục tập quán, nhân tài của Đại Việt

‐ Đại Việt qua bao thời Đại vẫn đứng vững và kiêu hãnh trên trường quốc tế.

‐ Thất bại thảm hại của những kẻ làm việc bất nhân phi nghĩa

c. Kết bài:

Giá trị chung của tác phẩm: Ngôn ngữ khảng khái, lời thơ hùng hồn thể hiện tấm lòng lớn vì dân của Nguyễn Trãi đã tạo nên một tác phẩm văn học lớn và trở thành một bản tuyên ngôn bất hủ của dân tộc.

3. Bài văn cảm nhận đoạn 1 “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi ấn tượng nhất:

Sinh ra trong một gia đình  có truyền thống yêu nước và văn học lâu đời, Nguyễn Trãi sớm tiếp thu và lĩnh hội những tư tưởng cơ bản của Nho giáo. Nguyễn Trãi không chỉ là một thiên tài về Nho học, chính trị, quân sự mà  còn là một nhà văn, nhà thơ nổi tiếng đương thời. Sáng tác của Nguyễn Trà luôn tỏa sáng tinh thần yêu nước sâu sắc, và “Bình Ngô Đại Cáo” là một trong số đó. Đặc biệt đoạn mở đầu của “Bình Ngô Đại Cáo” đã nêu  rõ  luận điểm chính nghĩa làm xuất phát điểm tư tưởng của toàn bài.

Thứ nhất, phần mở đầu của tác phẩm đã đánh thức tầm hiểu biết sâu sắc và độc đáo:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo.”

Như chúng ta đã biết, trong hệ tư tưởng tư tưởng Nho giáo từ ngàn đời nay, “nhân nghĩa” là một khái niệm cốt lõi về mặt tư tưởng, nó thể hiện mối quan hệ tốt đẹp, gắn bó giữa con người với nhau dựa trên  tình yêu thương và đạo đức. Vốn xuất thân Nho học, có lẽ hơn ai hết Nguyễn Trãi hiểu sâu sắc quan điểm này của Nho giáo và  chọn nó làm nền tảng tư tưởng của toàn bộ tác phẩm. Nhưng xa hơn nữa, đối với Nguyễn Trãi, cốt lõi của “nhân nghĩa” là mục đích mang lại cho con người cuộc sống bình yên, ấm no, hạnh phúc. Đồng thời, ông cũng chỉ rõ, muốn yên dân thì  phải “trừ bạo”, tức là phải đánh đuổi bọn tàn ác, tham lam xâm lược nước ta, bọn tàn ác đã đẩy nhân dân ta vào cảnh nghèo đói, khó khăn và đau khổ. Như vậy có thể thấy, tư tưởng nhân nghĩa của Nguyễn Trãi luôn gắn liền với con người, lấy con người làm gốc, làm nền, đánh tan quân xâm lược.

Không chỉ nêu lên tư tưởng nhân nghĩa là nền tảng vững chắc của chân lý, trong phần mở đầu của bài cáo, tác giả Nguyễn Trãi còn nêu lên chân lý độc lập của dân tộc ta từ bao đời nay.

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Chỉ với những câu thơ ngắn gọn nhưng có lẽ cũng đủ để Nguyễn Trãi khám phá tường tận, rõ ràng truyền thống lâu đời của dân tộc, đó cũng là một sự thật độc lập, khách quan mà ông muốn đề cập. Dân tộc Đại Việt cũng như bao dân tộc khác, có nền văn hóa lâu đời,  lãnh thổ riêng, được phân định rõ ràng và cùng với đó, mỗi vùng miền có những phong tục tập quán mang bản sắc riêng. Ngoài ra, tác giả Nguyễn Trãi đã sử dụng biện pháp đối lập để sáng ngang các triều đại  Đại Việt  với các triều đại phong kiến ​​phương Bắc, điều này không chỉ củng cố nền độc lập của dân tộc mà còn thể hiện niềm tự hào về truyền thống, lịch sử hàng nghìn năm của dân tộc Đại Việt.

Ngoài ra, ở những câu thơ cuối của đoạn mở đầu tác phẩm của Nguyễn Trãi, tác giả đã khéo léo ôn lại những chiến công lịch sử vẻ vang, vang dội của quân và dân ta trong lịch sử.

“Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã

Việc xưa xem xét

Chứng cứ còn ghi.”

Tác giả đưa ra những dẫn chứng, những sự kiện đã xảy ra trong lịch sử – Lưu Cung, Triệu Tiết, Toa Đô, Ô Mã – sự thất bại thảm hại của giặc như minh chứng cho sức mạnh, sự chiến thắng của quân và dân ta. Chiến thắng là kết quả tất yếu cuối cùng của những con người, những quốc gia luôn đứng trên nền tảng chính nghĩa để đấu tranh.

Tóm lại, có thể thấy đoạn mở đầu của “Bình Ngô Đại Cáo” bằng giọng văn hào hùng, tràn đầy niềm tự hào dân tộc, nhà văn Nguyễn Trãi đã nhấn mạnh đến tư tưởng chính đáng, chân lý độc lập duy nhất, khách quan của dân tộc. Đây là cơ sở tư tưởng vững chắc cho toàn bộ tác phẩm.

4. Bài văn cảm nhận đoạn 1 “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi hay nhất:

Nguyễn Trãi sinh năm 1380 mất năm 1942, hiệu là Ức Trai, là một nhà chính trị, quân sự tài ba, lỗi lạc, đã tích cực tham gia  và lập nhiều công lớn trong cuộc kháng chiến chống quân Minh của nhà Lê với vai trò là một cố vấn quân sự. Nguyễn Trãi trở thành vị tổ đầu tiên của nhà Hậu Lê vào năm do có công lớn trong việc dựng nước và giữ nước.

Có thể thấy, tư tưởng của Nguyễn Trãi gồm ba điểm chính: thứ nhất là tư tưởng nhân nghĩa, thứ hai là tư tưởng phụng mệnh cho trời và cuối cùng chính là tư tưởng về con người, nhân dân. Những tư tưởng này của Nguyễn Trãi phát triển và tiến bộ hơn nhiều so với các danh nhân, nghĩa sĩ cùng thời. Và hệ tư tưởng này được thấy rõ trong tác phẩm nổi tiếng nhất của ông là “Bình Ngô Đại Cáo”, bản tuyên ngôn độc lập thứ hai của dân tộc sau “Nam quốc sơn hà” của Lý Thường Kiệt.

Mở đầu bài cáo, Nguyễn Trãi đã nêu lên những luận điểm chính xác, nhằm làm căn cứ, cơ sở xác đáng cho việc phổ biến toàn bộ nội dung của bài cáo.

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo;

…..

Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau,

Song hào kiệt thời nào cũng có

Cho nên:

Lưu Cung tham công nên thất bại;

…..

Việc xưa xem xét, chứng cứ còn ghi”

Đầu tiên, Nguyễn Trãi đề xuất tư tưởng nhân nghĩa thể hiện ở việc yêu thương con người, thể hiện bằng hành động cụ thể, trong đó có việc “Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân” tức là người đứng đầu đất nước phải có nghĩa vụ cũng như trách nhiệm bảo vệ cuộc sống bình yên, ấm no của nhân dân. Cùng với đó là phải “Quân điếu phạt trước lo trừ bạo” nghĩa là phải diệt trừ lòng tham, sự tàn bạo tham lam bạo ngược, những kẻ đã phá vỡ hòa bình của dân tộc thì cuộc sống nhân dân mới hạnh phúc.

Từ đó có thể thấy được quan điểm mới, tiến bộ của Nguyễn Trãi: nhân nghĩa là ở tình yêu con người, yêu hòa bình và lòng yêu nước sâu sắc.

Một luận điểm khác được Nguyễn Trãi đề cập là sự tồn tại độc lập, chủ quyền của nước Đại Việt ta từ mấy đời nay, được tác giả khẳng định là sự thật khách quan với năm yếu tố chính chứng minh. Kể cả nền văn hiến độc lập có từ lâu đời, kể cả lãnh thổ riêng, rồi về văn hóa cũng có phong tục Bắc phong tục Nam.

Tuy có Hán, Đường, Tống, Nguyên ở phía bắc, nhưng trong lịch sử, nước Đại Việt ta cũng có các các triều Triệu, Đinh, Lý, Trần không kém cạnh gì. Truyền thống lịch sử đặc biệt này còn được thể hiện trong câu ca “Tuy mạnh yếu có lúc khác nhau/ Nhưng hào kiệt thời nào cũng có”, khẳng định rằng đời nào thì nước ta cũng có những bậc anh hùng. Sử sách ghi, những kỳ tích vĩ đại trong công cuộc bảo vệ nền độc lập dân tộc của ta đã gây cho kẻ thù bao nhiêu mất mát, khốn đốn.

Cho nên lan truyền những câu chuyện như “Lưu Cung ham công mà thất bại; Triệu Tiết chết lớn; Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô; Ô Mã bị sông Bạch Đằng giết”, đó là những bằng chứng, không thể chối cãi đã được in trên từng trang sử  Đại Việt ta từ bao đời nay.

Và cuối cùng, để kết thúc các ý trên, việc khẳng định chủ quyền và độc lập  của dân tộc trong bài thơ “Mỗi bên xưng đế một phương” thể hiện phong cách tự tin, mạnh mẽ và ý thức tự tôn dân tộc của Nguyễn Trãi. Việc vua phương Nam gọi mình là “Đế” chứ không xưng “Vương” với thái độ coi thường  phương Bắc, xem ta như một nước chư hầu lệ thuộc vào “khu vực” của họ.

Chúng ta thấy rõ điều đó trong bài cáo này. Nguyễn Trãi đã bác bỏ hoàn toàn ý kiến ​​ngạo mạn này, khẳng định sự khác biệt giữa hai  dân tộc trên tất cả các lĩnh vực địa lý, lịch sử, văn hóa, phong tục tập quán và chủ quyền lãnh thổ, tạo nên hệ thống lý luận, nền tảng vững chắc cho các đoạn sau của bài cáo.

“Bình Ngô đại cáo” lên án tội ác của quân giặc, ca ngợi cuộc khởi nghĩa Lam Sơn, tác phẩm được coi như một bản tuyên ngôn độc lập của nhân dân ta, là một thiên cổ hùng văn có giá trị cho đất nước ta ngàn đời về sau.

5. Bài văn cảm nhận đoạn 1 “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi ý nghĩa nhất:

Năm 1407, giặc Minh xâm lược nước ta. Chúng đã gây nên bạo tội ác, bao đau thương cho dân tộc ta. Năm 1814, Lê Lợi phất cờ khởi nghĩa tại núi rừng Lam Sơn Thanh Hóa. Sau 10 năm chiến đấu oanh liệt và anh dũng, quân dân ta đã đánh đuổi quân Minh xâm lược ra khỏi bờ cõi, giành lại nền độc lập, tự do cho đất nước và nhân dân.

Đầu xuân 1428, Nguyễn Trãi  thay Lê Lợi viết bài “Bình Ngô Đại Cáo” tổng kết 10 năm kháng chiến với những chiến công hiển hách, tuyên bố nước Đại Việt bước vào một kỷ nguyên mới, đất nước thái bình.

Phần đầu của “Bình Ngô Đại Cáo”, Nguyễn Trãi nêu cao tư tưởng nhân nghĩa đồng thời ca ngợi nền văn hiến rực rỡ lâu đời của Đại Việt.

Nhân nghĩa là mục tiêu chiến đấu của nhân dân ta:

“Việc nhân nghĩa cốt ở yên dân,

Quân điếu phạt trước lo trừ bạo”

Yên dân, điếu phạt, trừ bạo là bản chất cốt lõi của nhân nghĩa, tất cả đều nhằm hướng tới hạnh phúc của con người. Thương dân, trừng trị kẻ ác, diệt gian tham, bạo ngược (trừ bạo), cứu dân khỏi cuộc sống lầm than, đau thương, đem lại cho dân bình yên hạnh phúc (yên dân), đó chính là nhân nghĩa . Nhân nghĩa mà Nguyễn Trãi nói đến là một tư tưởng vô cùng cao cả: đánh giặc cứu nước, cứu nước, vì độc lập đất nước, vì tự do, hạnh phúc và hòa bình của nhân dân. Nhân nghĩa là yếu tố chủ lực  để đánh bại quân Minh.

Dân tộc ta có truyền thống nhân nghĩa, nên dùng nhân nghĩa để xây dựng và phát triển nền văn hiến lâu đời và vẻ vang của Việt Nam. Nếu như trong “Nam quốc sơn hà” Lý Thường Kiệt chỉ nhắc đến sông núi phương Nam là “chốn của các đế vương phương Nam”, vùng đất linh thiêng này đã được “sách trời ghi rõ” thì trong “Bình Ngô đại cáo” ”, Nguyễn Trãi, người đứng “Trên đỉnh cao của Bình Ngô đại cáo” đã có cái nhìn mới sâu sắc, toàn diện về đất và người Đại Việt:

“Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu

Núi sông bờ cõi đã chia

Phong tục Bắc Nam cũng khác

Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương

Tuy mạnh yếu từng lúc khác nhau

Song hào kiệt đời nào cũng có.”

Dân tộc Đại Việt cũng như bao dân tộc khác, có nền văn hóa lâu đời,  lãnh thổ riêng, được phân định rõ ràng và cùng với đó, mỗi vùng miền có những phong tục tập quán mang bản sắc riêng.

Năm yếu tố đó kết hợp lại đã tạo nên thế và lực của Đại Việt, đánh bại mọi âm mưu xâm lược, bành trướng của Thiên triều, lập nhiều chiến công hiển hách.

“Lưu Cung tham công nên thất bại

Triệu Tiết thích lớn phải tiêu vong

Cửa Hàm Tử bắt sống Toa Đô

Sông Bạch Đằng giết tươi Ô Mã”.

Giọng điệu hào hùng cùng lập luận chặt chẽ, lối diễn đạt song hành, cân đối của các câu thơ đã khẳng định và tôn vinh giá trị lịch sử to lớn  của nước Đại Việt, thể hiện ý chí cao đẹp và lòng tự tôn dân tộc.

Phần mở bài đã giúp thể hiện đẹp đẽ những giá trị tư tưởng và nghệ thuật của “Bình Ngô đại cáo”,  Tuyên ngôn độc lập, áng văn “Thiên hùng ca” của dân tộc.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com