Hành vi chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm có vi phạm không? Mức xử phạt hành chính khi chia sẻ phim nóng, tung ảnh nhạy cảm của người khác? Truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm?
Cùng với sự phát triển của công nghệ 4.0, việc quản lý thông tin trên không gian mạng còn nhiều kẽ hở dẫn tới nguy cơ nhiều thông tin, hình ảnh cá nhân bị kẻ gian đánh cắp, đe dọa tung lên mạng xã hội với những yêu cầu vô lý hoặc nhiều đối tượng lợi dụng sự ảnh hưởng của mạng xã hội dùng những hình ảnh, clip nhạy cảm nhằm xúc phạm tới danh dự, nhân phẩm người khác, gây ra những phản ứng tiêu cực từ mọi người xung quanh, khiến cho nhiều nạn nhân bị ảnh hưởng trầm trọng về tinh thần thậm chí tự tử. Vậy khi chia sẻ phim nóng, tung ảnh nhạy cảm bị xử lý như thế nào?
Căn cứ pháp lý:
– Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017;
– Bộ luật dân sự năm 2015;
– Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng;
– Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử.
LVN Group tư vấn luật miễn phí qua tổng đài điện thoại: 1900.0191
1. Hành vi chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm có vi phạm không?
Tại Điều 32 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định rằng cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình và việc cá nhân sử dụng hình ảnh thì phải được sự đồng ý của người đó. Quyền hình ảnh của cá nhân là quyền nhân thân được pháp luật bảo vệ liên quan đến việc sử dụng và cho phép sử dụng hình ảnh đó. Không ai được phép xâm phạm hình ảnh cá nhân của người khác khi chưa được sự cho phép, đó là đời sống riêng tư của mỗi người cần được tôn trọng.
Do đó, việc sử dụng phim nóng, hình ảnh của người khác chia sẻ lên mạng xã hội hay phát tán cho người khác là hành vi vi phạm quy định pháp luật và phải chịu trách nhiệm tùy vào mức độ có thể bị xử phạt hành chính hoặc bị truy tố trách nhiệm hình sự. Chủ thể có hình ảnh cá nhân bị xâm phạm có quyền tự mình hoặc yêu cầu cơ quan có thẩm quyền buộc người có hành vi vi phạm phải chấm dứt thực hiện hành vi nhằm bảo vệ quyền lợi cho hình ảnh chính mình.
2. Mức xử phạt hành chính khi chia sẻ phim nóng, tung ảnh nhạy cảm của người khác:
Căn cứ Điểm b Khoản 1 Điều 5 Nghị định 72/2013/NĐ-CP về quản lý, cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng, hành vi chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm của người khác là một trong những hành vi bị cấm. Bởi đây được xem là hành vi lợi dụng việc cung cấp, sử dụng dịch vụ Internet và thông tin trên mạng nhằm mục đích tuyên truyền, kích động bạo lực, dâm ô, đồi trụy, tội ác, tệ nạn xã hội, phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc.
Với hành vi trên, người chia sẻ phim nóng, phát tán hình ảnh nhạy cảm của người khác sẽ bị xử phạt theo quy định tại Điểm g Khoản 3 Điều 102 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử, cụ thể:
“ Điều 102. Vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin
3. Phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng đối với một trong các hành vi sau:
..
g) Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác;”
Bên cạnh đó về trách nhiệm dân sự, việc sử dụng hình ảnh người khác mà chưa được sự cho phép của người đó đã vi phạm quy định tại Điều 32. Điều 34, Điều 38 Bộ luật dân sự năm 2015. Quyền của cá nhân đối với hình ảnh luôn được pháp luật bảo hộ, nghiêm cấm các hành vi xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác. Hành vi vi phạm này ngoài việc phải chấm dứt hành vi vi phạm còn phải cải chính, xin lỗi công khai và phải bồi thường tổn thất tinh thần cho nạn nhân bị xâm phạm.
Theo đó, tại Điều 592 Bộ luật dân sự năm 2015 quy định người bị hại có quyền yêu cầu bù đắp tổn thất tinh thần do danh dự, nhân phẩm, uy tín bị xâm hại, mức yêu cầu này do các bên thỏa thuận và tối đa gấp 10 lần mức lương cơ sở do nhà nước quy định. Hiện nay, mức lương cơ sở là 1.490.000 đồng, theo đó mức bồi thường tổn thất tinh thần tối đa là 14.900.000 đồng. Ngoài tiền bồi thường tinh thần, người vi phạm còn phải bồi thường các chi phí hợp lý để người bị hại hạn chế, khắc phục thiệt hại cũng như những chi phí do thu nhập thực tế bị mất hoặc bị giảm sút và các chi phí khác bị thiệt hại nếu có căn cứ.
3.Truy cứu trách nhiệm hình sự về hành vi chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm:
Người chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm nhằm xúc phạm danh dự, nhân phẩm, uy tín của người khác có thể bị truy tố trách nhiệm hình sự về tội làm nhục người khác theo quy định tại Điều 155 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi bổ sung năm 2017 với khung hình phạt bị phạt cảnh cáo, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng hoặc phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm.
Nếu hành vi chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm của người khác nếu có một trong các dấu hiệu: Phạm tội 02 lần trở lên; Đối với 02 người trở lên; Lợi dụng chức vụ, quyền hạn; Đối với người đang thi hành công vụ; Đối với người dạy dỗ, nuôi dưỡng, chăm sóc, chữa bệnh cho mình; Sử dụng mạng máy tính hoặc mạng viễn thông, phương tiện điện tử để phạm tội; Gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể từ 31% đến 60% thì bị xử lý theo Khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự 2015 sửa đổi bổ sung năm 2017 với khung hình phạt từ 03 tháng đến 02 năm. Trường hợp gây rối loạn tâm thần và hành vi của nạn nhân mà tỷ lệ tổn thương cơ thể 61% trở lên hoặc làm nạn nhân tự sát thì mức hình phạt có thể bị phạt tù từ 02 nămlên đến 05 năm. Thêm vào đó, nếu người phạm tội đang công tác thì còn có thể bị cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Ngoài ra, hành vi chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm của người khác lên mạng xã hội còn là hành vi phát tán văn hóa phẩm đồi trụy, có thể bị truy tố về tội truyền bá văn hóa phẩm đồi trụy theo quy định tại Điều 326 Bộ luật hình sự năm 2015, sửa đổi, bổ sung năm 2017. Hành vi phát tán, chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm thuộc một trong các trường hợp sau đây: đoạn phim, hình ảnh đó có dữ liệu được số hóa có dung lượng từ 01 gigabyte (GB) đến dưới 05 gigabyte (GB); hình ảnh nhạy cảm có số lượng từ 100 ảnh đến dưới 200 ảnh; sách in, báo in hoặc vật phẩm khác có số lượng từ 50 đơn vị đến dưới 100 đơn vị; phim nnongs, hình ảnh nhạy cảm bị phát tán phổ biến cho từ 10 người đến 20 người; người chia sẻ phim nóng, nhình ảnh đó đã bị xử phạt vi phạm hành chính về một trong các hành vi trên hoặc đã bị kết án về tội này, chưa được xóa án tích mà còn vi phạm thì bị phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 100.000.000 đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 03 năm hoặc phạt tù từ 06 tháng đến 03 năm.
Trường hợp khi chia sẻ hình ảnh nhạy cảm, phim nóng của người khác mà đó là hành vi có tổ chức; dữ liệu được số hóa có dung lượng từ 05 gigabyte (GB) đến dưới 10 gigabyte (GB); hình ảnh phát tán có số lượng từ 200 ảnh đến dưới 500 ảnh; Sách in, báo in hoặc vật phẩm khác có số lượng từ 100 đơn vị đến dưới 200 đơn vị; đã được lan truyền phổ biến cho từ 21 người đến 100 người, người chia sẻ hình ảnh, đoạn phim đồi trụy đó hổ biến cho người dưới 18 tuổi; sử dụng mạng internet, mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử để phạm tội; hành vi xảy ra nhiều lần tái phạm nguy hiểm thì mức xử phạt theo quy định tại Khoản 2 Điều 155 Bộ luật hình sự sửa đổi bổ sung năm 2017 với khung phạt tù từ 03 năm đến 10 năm.
Trường hợp chia sẻ hình ảnh, đoạn phim nhạy cảm có dữ liệu được số hóa có dung lượng 10 gigabyte (GB) trở lên; sách in, báo in có số lượng 101 đơn vị trở lên; ảnh bản giấy có số lượng 501 ảnh trở lên; phổ biến cho 101 người trở lên thì có thể bị phạt tù từ 7 năm cho tới 15 năm, còn có thể bị phạt tiền từ 5.000.000 đồng đến 30.000.000 đồng, cấm hành nghề hoặc làm công việc nhất định từ 01 năm đến 05 năm.
Như vậy, trong trường hợp bị người khác chia sẻ phim nóng, hình ảnh nhạy cảm lên mạng xã hội cần đến cơ quan công an cấp huyện nơi người đó cư trú để trình báo, mức xử phạt và hình thức xử phạt cụ thể bao nhiêu còn tùy thuộc vào từng trường hợp xác minh, điều tra, kết luận của cơ quan có thẩm quyền.