Bác Ba là người chứng kiến toàn bộ câu chuyện của cha con ông Sáu. Bác Ba đã kể lại truyện Chiếc lược ngà thể hiện cái nhìn khách quan hơn về câu chuyện. Xem bài viết dưới đây về một số mẫu Đóng vai bác Ba kể lại chuyện Chiếc lược ngà hay chọn lọc.
1. Đóng vai bác Ba kể lại chuyện Chiếc lược ngà ngắn nhất:
Tình yêu thương con của anh Sáu trở nên mạnh mẽ, cao quý và cảm động hơn bao giờ hết khi anh tự tay làm chiếc lược tự chế cho con gái. “Ba về rồi! Ba mua cho con cái lược nghe ba!”, là mong ước giản dị của cô bé khi nói lời tạm biệt với ba. Nhưng với người cha ấy, đó là ước muốn đầu tiên và duy nhất nên nó luôn đè nặng trong lòng.
Tìm cây lược cho con gái đã trở thành bổn phận của người cha, thành tiếng gọi cầu khẩn của tình phụ tử trong lòng. Trong anh bỗng chợt lóe lên một ý tưởng tuyệt vời: Làm cây lược cho con bằng ngà voi. Có lẽ vì anh không thể mua lược trong rừng trong thời gian chiến tranh, vì vậy làm chiếc lược ngà là một phương pháp khắc phục sự khó khăn. Nhưng hơn thế ngà voi là một nguyên liệu rất hiếm. Chiếc lược của con gái phải được làm bằng chất liệu quý giá này. Và anh không muốn mua nó, anh muốn tự làm nó. Kiếm được chiếc ngà voi, khuôn mặt anh “phấn khởi như đứa trẻ được quà”.
Chính khi hóa thành con trẻ thì anh Sáu lại đang thể hiện thiên chức làm cha cao cả. Rồi anh ngồi cưa từng chiếc răng lược, thận trọng tỉ mỉ và khổ công như người thợ bạc, gò lưng tẩn mẩn khắc từng chữ: “Yêu nhớ tặng Thu con của ba”. Anh thường xuyên lấy cây lược ra ngắm nghía rồi chải lên tóc cho cây lược thêm bóng mượt.
Tình yêu con đã khiến người lính trở thành nghệ sĩ – nghệ sĩ chỉ làm một tác phẩm duy nhất trong đời, nên chiếc lược ngà kết tinh trong đó một tác phẩm mộc mạc mà sâu sắc tình cha con mới ngọt ngào làm sao! Nhưng ngày ấy sẽ không bao giờ đến. Anh Sáu chưa kịp mang chiếc lược ngà cho con thì đã hy sinh trong một trận giặc lớn.
Nhưng “hình như chỉ có tình cha con là không chết được”. Vào giây phút cuối cùng, không thể nghĩ được gì khác, bằng hết tất cả sức lực còn lại , anh đưa tay vào túi, móc cây lược ra và đưa cho tôi ‐ người bạn cận chiến thân thiết và nhìn tôi thật lâu. Nhưng đây là lời chưa nói cuối cùng, nó rõ ràng thiêng liêng hơn di chúc, bởi nó là niềm tin, là tâm nguyện cuối cùng của một người bạn tri kỷ, là ước nguyện của người làm cha. Và cũng kể từ giây phút ấy, chiếc lược ngà của tình phụ tử đã trở thành nút thắt khiến tôi trở thành một người cha thứ hai của bé Thu và tôi cũng coi cô bé như con của mình vậy.
2. Đóng vai bác Ba kể lại chuyện Chiếc lược ngà hay nhất:
Tôi tên là Ba và tôi là một người lính đã nghỉ hưu. Mỗi lần nhớ lại thời cùng đồng đội đi chiến đấu, trong tôi lại có biết bao kỷ niệm vui buồn. Chiến tranh gây ra nhiều thương vong và cảnh li biệt chia xa. Tôi đã thấy nhiều đồng đội ngã xuống trong trận chiến, đã thấy nhiều câu chuyện trên chiến trường. Nhưng có một câu chuyện mà tôi vẫn còn nhớ rất rõ. Năm tôi vào chiến đấu, anh Sáu – người anh đã giúp đỡ tôi rất nhiều trong những ngày đầu tôi còn bỡ ngỡ. Tôi và anh rất thân, chuyện gì cũng nói với nhau nên tôi biết anh Sáu đã có vợ con ở nhà.
Lâu ngày không gặp, chúng tôi đang trong nghỉ phép, anh ấy mời tôi về thăm quê anh ấy. Trên đường về thăm quê, anh nhìn bức ảnh con mà tủm tỉm cười. Đã tám năm kể từ ngày anh ra trận, khi đứa con duy nhất của anh chưa đầy một tuổi. Anh ấy hẳn đã tưởng tượng rằng anh ấy sẽ muốn ôm con gái khi trở về nhà sau bao ngày xa cách.
Sau khi về đến nhà, anh liền vội nhảy lên bờ tìm con. Thấy anh, cô bé hốt hoảng chạy vào nhà. Ngạc nhiên trước thái độ của con gái, anh gần như đứng lặng người nhìn, ánh mắt lộ rõ vẻ thất vọng, khuôn mặt tối sầm lại, trông thật đáng thương, hai bàn tay buông thõng như muốn gãy.
Trong thời gian nghỉ phép, anh Sáu chỉ muốn con gái gọi to một tiếng “ba”, nhưng nó nhất quyết không chịu. Anh không đi đâu cả, luôn quan tâm và lo lắng cho đứa trẻ. Nhưng càng cố lại gần, noa càng đẩy anh ra xa. Dù chị Sáu có giải thích, nó vẫn im lặng không nói gì. Trước thái độ ương ngạnh, ngoan cố của con gái, anh bất lực, xót xa nhìn con mà rơm rớm nước mắt.
Vào ngày cuối cùng của kỳ nghỉ, trong bữa cơm chia tay, anh Sáu bưng một đĩa trứng cá lớn đựng trong chén cho con gái. Nó chọc đũa vào bát rồi bất ngờ hất miếng trứng ra ngoài, cơm văng tung tóe khắp đĩa. Anh Sáu tức giận, không kịp suy nghĩ, liền đánh vào mông con bé một cái. Trong bữa ăn, không khí ngột ngạt, khó xử, tôi nghĩ do tính cách của con bé thì nó sẽ làm đổ đĩa cơm hoặc bỏ chạy. Trái ngược với những gì tôi nghĩ, nó đặt trứng cá muối vào bát và bình tĩnh đứng dậy. Con bé ra bến, nhảy xuống xuồng, mở lòi tói, tạo tiếng động rồi lấy dầm bơi ngang qua sông. Nó đến gặp bà ngoại, nói với bà và khóc ở đó. Đến chiều, khi chị Sáu đến dỗ dành, nó cũng không chịu về. Ngày mai chúng tôi phải đi, đêm cuối cùng của hai anh chị nên cũng không bắt con bé về.
Những ngày nghỉ phép ngắn ngủi, đã đến lúc phải trở lại đơn vị. Tôi biết anh Sáu buồn lắm. Bao nhiêu năm anh chờ đợi để được nghỉ phép, được về thăm con, được nghe tiếng gọi cha của con gái nhưng cuộc đời thật trớ trêu.
Vào buổi sáng ngày chúng tôi khởi hành, rất nhiều người đã ra tiễn. Ông Sáu đứng xa xa, nhìn đứa con gái nhỏ đứng ngoài cửa, nghẹn ngào nói: “Ba đi nghe con”. Có lẽ con bé đã nhận ra tình yêu của cha mình trong cuộc chia ly. Nó khóc to, tiếng “ba ơi” thật dài thốt lên, nó khóc dữ dội, nước mắt chảy dài. Tiếng gọi của nó như một tiếng xé, xé tan sự im lặng, nghe thật xót xa. Có lẽ từ “cha” đó mà nó đã cố gắng kìm nén bao nhiêu năm, nó hét lên một tiếng và lao tới, nhanh như sóc, nhảy lên ôm cổ anh Sáu. Nó chỉ biết ôm cha khóc, không cho anh đi. Con bé hôn cha, hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và cả vết sẹo dài trên má anh Sáu.
Tôi và mọi người đứng yên nhìn. Hóa ra tối qua bà ngoại đã giải thích với nó, hóa ra sở dĩ con bé không gọi anh là ba là vì anh có một vết sẹo dài. Bây giờ con bé đã hiểu ra nên yêu và tự hào về cha mình nhiều lắm.
Con bé không muốn rời xa cha, muốn cha ở nhà. Anh Sáu hứa với con gái sẽ trở lại, nhưng nó không chịu. Cũng có thể hiểu được, biết thời gian dài không gặp được cha, nó không dễ dàng gì để cha đi như vậy. Bà ngoại phải dỗ nó mãi nó mới chịu nghe. Anh sáu hứa mua cho con gái một chiếc lược. Sau đó chúng tôi lên đường và đi đến chiến trường. Tôi để ý chưa bao giờ nét mặt anh Sáu vui như thế. Có lẽ anh nhớ nó, nhớ đứa con trong vòng tay, nghe tiếng cha thủ thỉ nhưng chiến tranh đã chia cắt tình cha con khiến cô bé khó lòng chấp nhận ông.
Anh Sáu lên chiến khu mà nhớ con da diết. Trên chiến khu, anh kiêm một đoạn ngà voi, nhớ lời hứa với con gái, đục đẽo một chiếc lược ngà. Anh làm tỉ mỉ, cẩn thận lắm, khi nào rảnh anh làm lại. Anh yêu con gái bao nhiêu thì dồn hết vào chiếc lược. Sau khi làm xong, cứ khi nào nhớ con anh lại lấy chiếc lược chải tóc cho cây lược thêm bóng mượt, rồi ôm nó vào lòng như đang bồng một đứa trẻ. Con gái anh chắc chắn sẽ rất thích, anh rất mong một ngày được về để được gặp con và chải đầu cho con bằng chiếc lược này.
Trong chiến tranh khốc liệt, không biết trước cái chết có thể ập đến bất cứ lúc nào. Mong ước được gặp con không thành nên anh Sáu đã hy sinh. Trong một lần càn quét lớn của địch anh bị bắn vào ngực, trước khi chết anh cầm chiếc lược trên tay dặn tôi hãy sống đưa lại chiếc lược cho con gái anh. Cảm giác nhìn thấy đồng đội chết ngay trước mắt mình thật ám ảnh đến nỗi tôi vẫn mơ về cảnh tượng đau buồn đó. Tôi nói với anh ấy “anh yên tâm, em sẽ mang về đưa tận tay cho cháu”.
Đã mấy năm trôi qua, chiến tranh ngày càng ác liệt. Tôi đã phải hành quân để di chuyển từ khu vực này sang khu vực khác. Tôi không được phép về nhà, nhưng trong lòng tôi luôn canh cánh, bởi lời hứa với anh Sáu đã không thực hiện được, tôi không thể về trao món quà cuối cùng cho Thu – con gái anh Sáu. Như có trời sắp đặt để thỏa ước nguyện của anh Sáu, cuối cùng tôi gặp lại bé Thu ở đoàn công tác trong vùng tạm chiếm. Bé Thu bây giờ đã lớn hơn rất nhiều so với khi tôi gặp cô bé. Giờ cô đã trở thành thiếu nữ làm giao liên vùng Đồng Tháp Mười. Cô bé lớn lên với khuôn mặt xinh đẹp giống mẹ nhưng tính tình ngoan cường, dũng cảm chẳng kém gì anh Sáu. Thu vẫn nhận ra tôi, nghe tôi kể chuyện ông Sáu, nó rưng rưng nước mắt khi cầm kỷ vật của cha.
Chiến tranh đã qua nhiều năm nhưng tôi luôn nhớ câu chuyện về người đồng chí tên Sáu. Tôi nhận ra rằng dù thực tại có thay đổi bao nhiêu, thời gian có trôi qua bao nhiêu thì tình cảm gia đình, máu mủ ruột thịt là thứ không bao giờ thay đổi. Nhiều người nghe chuyện thường trách bé Thu ương ngạnh, nhưng tôi thấy Thu có lẽ thương cha hơn anh Sáu nghĩ. Thế nhưng chiến tranh tàn nhẫn quá, khiến chia rẽ khoảng cách hai cha con nhưng dù thế nào đi chăng nữa, tình máu mủ sẽ mãi mãi là sợi dây vô hình gắn kết họ lại với nhau.
3. Đóng vai bác Ba kể lại chuyện Chiếc lược ngà ấn tượng nhất:
Chiến tranh có thể gây chia cắt, hủy hoại mọi sự sống, làm tan vỡ hạnh phúc của bao gia đình. Chiến tranh là sinh tử, ta gặp nhau ngay đây, nhưng ngày mai không còn gặp lại nhau. Lời hứa trường tồn theo thời gian và thử thách con người đến cùng. Mỗi lần nhìn thấy chiếc lược ngà này, tôi đều bồi hồi và ngậm ngùi. Tôi đã thấy vô số cuộc chia ly trong cuộc đời kháng chiến của mình, nhưng chưa bao giờ tôi xúc động như lúc đó.
Những ngày ấy, hòa bình vừa lập lại, tôi và anh Sáu về thăm gia đình. Anh Sáu là người kháng chiến, sớm ly gia đình đi căn cứ. Vào thời điểm anh đi, đứa con gái đầu lòng – và cũng là đứa con duy nhất của ông – chưa đầy một tuổi. Bảy năm sau, khi con lên 8 tuổi, anh mới có dịp trở về quê thăm nhà, thăm con.
Anh Sáu ngồi trầm ngâm, mặt chăm chú nhìn mặt, tôi hiểu anh đang nghĩ đến đứa con gái. Anh tưởng tượng rằng con gái sẽ hét lên sung sướng và quàng tay quanh cổ anh khi anh ấy về nhà. Sau nhiều năm xa cách, tình cảm cha con trống rỗng đã được lấp đầy. Tuy nhiên, thực tế không như mong đợi. Anh Sáu về đến nhà, vội nhảy xuống khi thấy con, nhưng con bé lại hốt hoảng chạy vào nhà. Anh đứng đó nhìn con mình, đau đớn và thất vọng, khuôn mặt anh trở nên đáng thương và hai bàn tay buông thõng như bị gãy.
Mấy ngày ở nhà, anh chỉ muốn bé Thu con anh gọi ba, nhưng con bé đều không chịu. Suốt ngày anh không đi đâu xa, lúc nào cũng vỗ về con. Nhưng càng vuốt ve, nó càng đẩy ra. Mẹ giải thích, dọa đánh, nó cũng im lặng, không nói gì. Tôi và anh Sáu cố bắt nó gọi bằng ba nhưng đành phải chấp nhận. Đứa trẻ bướng bỉnh và cố chấp. Bất lực, anh Sáu đành rơm rớm nước mắt nhìn con.
Trong bữa ăn, anh ân cần gắp một quả trứng cá vàng to cho con gái bỏ vào chén. Nó lập tức cắm đũa vào bát, để yên đó rồi bất ngờ hất quả trứng ra ngoài, cơm tung tóe khắp mâm. Quá tức giận và không kịp suy nghĩ, anh vung tay đánh vào mông nó một cái đau điếng. Tôi đã nghĩ nó sẽ khóc, vùng vẫy, xô đổ mâm cơm hoặc bỏ chạy. Nhưng không, nó ngồi bất động, đầu gục xuống. Nghĩ đoạn, con bé cầm đũa gắp miếng trứng cá bỏ vào bát rồi đứng dậy rời mâm. Khi tới bến, nó nhảy xuống xuồng, đốt lòi tói, tạo nên tiếng động rồi lấy dầm bơi thật nhanh qua sông. Nó đến gặp bà ngoại, kể với bà và khóc ở đó. Chiều hôm đó, mẹ đến an ủi nhưng nó nhất quyết không về. Ngày mai anh Sáu phải đi rồi, đây là đêm cuối cùng của anh chị nên chị cũng không muốn ép nó về.
Chúng tôi không hiểu tại con bé không gọi anh Sáu là cha, và cũng không thể nào bắt nó phải gọi như vậy được. Ba ngày nghỉ ngắn ngủi trôi qua. Anh Sáu dù rất bối rối nhưng chúng tôi cũng phải thống nhất để về đơn vị đúng hẹn.
Nhưng cuộc đời thật kỳ diệu, dù giữa ngõ cụt, sự khơi mở cũng đủ thắp lên bao hi vọng, vỡ òa hạnh phúc và lấp đầy những vết thương vốn đã quá lớn. Sáng hôm đó bà con tiễn chúng tôi ra bờ sông. Anh Sáu bùi ngùi nhìn đứa con gái nhỏ đang đứng ngoài cửa nghẹn ngào nói: “Ba đi nghe con!” Chợt nó kêu lên một tiếng Ba ơi” thật dài, nước mắt giàn giụa trên mặt. Tiếng kêu của nó như một tiếng xé xé toạc sự im lặng và làm thắt ruột gan của mọi người. Đó là tiếng “ba” mà nó đã cố gắng kìm nén bao nhiêu năm, tiếng “ba” như muốn nổ tung từ trong tim, nó hét lên và lao về phía trước, nhanh như sóc, hai tay ôm cổ ba. Con bé ôm chầm lấy ba, khóc ngặt nghẽo không chịu để ba đi. Anh Sáu mừng không nói nên lời. Còn bé hôn khắp mặt ba. Nó hôn tóc, hôn cổ, hôn vai và hôn cả vết sẹo dài trên má của anh Sáu.
Tôi đứng yên và nghĩ về điều bất ngờ này. Thì ra tối qua bà ngoại đã giải thích cho nó vết sẹo lớn trên mặt anh Sáu. Chỉ vì “điểm lạ” này mà nó từ chối anh mấy ngày. Giờ đây nó nhận ra mình càng yêu và tự hào về cha mình biết bao nhiêu.
Nó không chịu để ba đi, nó muốn ba ở nhà. Anh Sáu hứa sẽ trở lại, nhưng nó không chịu. Bà ngoại phải dỗ dành mãi, anh Sáu hứa sẽ mua cho con bé chiếc lược mới. Rồi chúng tôi lên đường trong niềm hân hoan lạ lùng. Lòng anh Sáu vui như mở hội, suốt đường đi tôi nhận thấy điều đó trên nét mặt hớn hở của anh.
Ở chiến khu, anh Sáu nhớ con suốt ngày. Một lần có đồng chí mang về một chiếc ngà voi, anh Sáu mừng rỡ. Anh cẩn thận cắt ngà voi thành những mảnh nhỏ và làm một chiếc lược. Xong xuôi, anh chải lại mái tóc cho chiếc lược thêm bóng mượt hơn rồi cất giữ trong lòng, chờ một ngày trở về đưa chiếc lược cho con gái.
Nhưng cuộc đời thật trớ trêu, điều ước chưa thành thì anh Sáu đã hy sinh. Trong một trận đánh lớn với giặc, anh Sáu bị bắn vào ngực. Trước khi trút hơi thở cuối cùng, anh đưa chiếc lược cho tôi và bảo tôi trao lại cho con gái anh. Tôi đồng ý. Tôi không đủ từ ngữ để diễn tả ánh mắt ấy, chỉ biết rằng thỉnh thoảng tôi vẫn nhớ đến ánh mắt của anh: “Em sẽ mang về trao tận tay cho cháu”. Tôi cúi xuống bên cạnh anh ấy và nói nhỏ. Lúc đó anh mới nhắm mắt xuôi tay.
Thời gian trôi qua, cuộc chiến ngày càng khốc liệt, tôi không thể về trao chiếc lược ngà,, món quà cuối cùng của anh Sáu cho bé Thu. Mãi mấy năm sau, trong một lần đi công tác vùng tạm chiếm, tôi gặp Thu ở trạm giao liên huyện Đồng Tháp Mười. Hiện tại, bé Thu đã trở thành một giao liên viên dũng cảm, dẫn đầu đoàn vượt qua con đường nguy hiểm. Tôi đã hoàn thành tâm nguyện cuối cùng của người đồng đội cũ (anh Sáu) là tặng bé Thu chiếc lược ngà. Cầm lược, nghe tôi kể, nước mắt Thu nghẹn ngào.
4. Nhân vật bác Ba trong “Chiếc lược ngà”:
Trong “Chiếc lược ngà” của Nguyễn Quang Sáng, Bác Ba là người bạn, người đồng chí với tình cảm thân thiết sâu nặng, đồng thời bác cũng là người luôn quan tâm, chia sẻ, đồng cảm với cha con ông Sáu.
4.1. Hiểu rõ tình cảm yêu con sâu nặng của ông Sáu:
Bác Ba là người hiểu rõ tình cảm yêu con của ông Sáu. Bác cũng là người cảm nhận rõ nhất nỗi đau, sự thất vọng của ông Sáu khi con gái từ chối ông sau 8 năm trở về nhà. Bác cũng dành thời gian để vun đắp mối quan hệ cha con ông Sáu. Khi cha con ông Sáu nhận nhau, bác Ba muốn xin anh ở lại chơi vài hôm nhưng hoàn cảnh không cho phép. Khi ông Sáu làm chiếc lược ngà, Bác đã cảm nhận được cung bậc tình cảm, cảm xúc của ông Sáu. Bác hiểu cho tình cảm của cha con ông Sáu. Ông Sáu hy sinh, bác Ba tiếp tục cuộc hành trình của cha con ông Sáu. Bác thực hiện lời hứa cha con, tiếp nối tình cha con, để tình cha con ông Sáu mãi mãi bất tử.
4.2. Tình đồng chí, đồng đội:
Bác Ba không chỉ hiểu cho tình hai cha con mà còn hết sức yêu thương, trân trọng những lời hứa với đồng đội. Tình bằng hữu được thể hiện cùng lúc với tấm lòng đồng cảm tình cha con. Nhưng có lẽ cảm động nhất là lúc ông Sáu sắp từ giã cõi đời. Bác chỉ nhìn bằng mắt là hiểu được ý nguyện của ông Sáu. Bác đã hứa và thực hiện lời hứa trao cho bé Thu chiếc lược ngà.