Giáo hội Công giáo, còn được gọi là Giáo hội Công giáo Rôma, là giáo hội Kitô giáo hiệp thông hoàn toàn với vị giám mục Rôma, hiện nay là Giáo hoàng Phanxicô. Giáo hội Công giáo là hệ phái tôn giáo lớn nhất thế giới, với trên 2,5 tỉ thành viên, tính đến năm 2022. Vậy Giáo Hội Công Giáo có bao nhiêu vị thánh được công nhận? Hãy cùng tìm lời đáp thông qua bài viết sau.
1. Giáo Hội Công Giáo có bao nhiêu vị thánh được công nhận?
Từ “thánh” bắt nguồn từ tiếng Latinh “sanctus” có nghĩa là “linh thiêng”. Trong các thế kỷ đầu tiên của Giáo hội, danh hiệu này được trao cho tất cả những người, đặc biệt là các vị tử đạo, mà sự thánh thiện của họ đã được xã hội công nhận rộng rãi.
Bộ Phong Thánh của Vatican mãi đến năm 1588 mới chính thức được thành lập để giúp điều chỉnh việc phong tước hiệu đó trong tiến trình phong thánh chính thức.
Trong nhiều thế kỷ, nhiều người đã dành thời gian thu thập tên các thánh và biên soạn một danh sách các thánh được chính thức phong thánh.
Tổng cộng, có khoảng 8000 vị thánh được chính thức công nhận trong Giáo hội Công giáo La Mã. Tuy nhiên, điều này có thể không bao gồm số lượng lớn các vị thánh được phong thánh trong những thập kỷ gần đây.
Riêng thời hiện đại, Thánh Gioan Phaolô II đã phong thánh cho 82 vị, Đức Bênêđictô XVI phong thánh cho 45 vị, và Đức Phanxicô phong thánh cho 893 vị. Sở dĩ số người được phong thánh tăng đột biến dưới thời Đức Thánh Cha Phanxicô là do ngài thường phong thánh tập thể, chẳng hạn năm 2013, 800 vị tử đạo người Ý được phong thánh, chỉ ít lâu sau khi ngài được bầu làm Mục Tử Toàn Thể Hội Thánh.
Trước đây, trong Giáo hội Công giáo có ba con đường nên thánh: thứ nhất là tử đạo, thứ hai là sống nhân đức anh hùng, thứ ba là danh tiếng thánh thiện. Ngày 11-7-2017, Tòa Thánh ban hành Tự sắc “Maiorem Hac Dilectionem”, nghĩa là “ban sự sống”, vạch ra con đường nên thánh thứ tư cho những ai sống đời Công giáo tốt và tự do chấp nhận cái chết vì lợi ích của người khác.
Đây là thay đổi đầu tiên về tiêu chuẩn phong thánh trong nhiều thế kỷ.
Từ năm 1983, tiến trình phong thánh của Giáo hội Công giáo trải qua các giai đoạn: đầu tiên là phong thánh “Servus Dei” – tức là “tôi tớ Chúa”, rồi đến bậc “Venerabilis” – nghĩa là “Bậc Đáng kính”, sau đó là “Beatus” – có nghĩa là “được ban phước” và cuối cùng là người được phong thánh cao nhất – “Sanctus”.
Ngoại trừ trường hợp tử vì đạo, những trường hợp khác, kể cả trường hợp thứ tư này, đòi hỏi phải có phép lạ được cho là nhờ lời cầu bầu của vị ấy để được tuyên chân phước vì phép lạ do ngài chuyển cầu; và một phép lạ thứ hai để được tuyên Thánh.
Tuy nhiên, cũng phải nói thêm rằng nếu các tín hữu bày tỏ lòng sùng kính đặc biệt đối với các thánh chưa được phong thánh, thì Đức Giáo Hoàng có thể quyết định “phong thánh cho họ một cách phù hợp” mà không cần tuân theo các tiến trình thông thường. Điều này thường được thực hiện khi các vị thánh sống cách đây rất lâu nên rất khó đáp ứng tất cả các yêu cầu để được phong thánh. Sự chuẩn chước này là một thông lệ đã tồn tại trong nhà thờ hàng trăm năm. Chẳng hạn, Đức Bênêđictô XIV đã phê chuẩn việc phong thánh cho 11 vị thánh. Cho đến nay, Đức Thánh Cha Phanxicô đã phê chuẩn tiến trình này cho việc “phong thánh tương ứng” cho năm Chân phước: Angela Foligno và Peter Faber (năm 2013), José de Anchieta, Marie Incarnate, Francis-Xavier Montmorency – Thành phố Laval (năm 2014).
Hầu hết mọi người đồng ý rằng số lượng các vị thánh Công giáo là vô số, vì thuật ngữ này thường được dùng để chỉ tất cả những người hiện đang ở trên thiên đường.
Vì vậy, phải có ít nhất hàng trăm tỷ vị thánh từ khi tạo ra thế giới cho đến ngày nay. Có bao nhiêu người sẽ được hưởng hạnh phúc trên thiên đường, không ai trong chúng ta biết chắc cho đến khi cuộc đời của chúng ta kết thúc trên trái đất.
2. Giáo hội Công giáo La Mã là gì?
Giáo hội Công giáo La Mã, có trụ sở tại Vatican và do Giáo hoàng lãnh đạo, là nhánh lớn nhất trong số các nhánh của Cơ đốc giáo, với khoảng 2,5 tỷ tín đồ trên toàn thế giới. Khoảng một trong hai Cơ đốc nhân là người Công giáo, và cứ 7 người trên thế giới thì có một người. Tại Hoa Kỳ, khoảng 22 phần trăm dân số coi Công giáo là tôn giáo yêu thích của họ.
3. Nguồn gốc của Giáo hội Công Giáo La Mã:
Để hiểu sự hình thành này, đầu tiên chúng ta phải hiểu sự phát triển của Giáo hội đầu tiên tại La Mã. Là Giáo hội từng bị bắt bớ nhưng sao lại được nhà nước La Mã công nhận?
Giáo Hội La Mã đã giữ chân lý tinh khiết của Hội thánh đầu tiên trong giai đoạn sơ khai – Hội thánh do Đức Chúa Jesus lập nên. Nhưng sau khi chấp nhận các thần khác của La Mã và các tập tục tôn giáo thì bắt đầu được công nhận là tôn giáo La Mã. Điều này dẫn đến sự ra đời của Giáo hội Công giáo La Mã mang những đặc điểm của đa thần giáo tại La Mã.
Sứ đồ Phaolo đã truyền Giáo Phúc Âm (rao truyền Tin lành) của Đấng Christ tại Palestine, vùng tiểu Á, Hy Lạp và cuối cùng là La Mã. Giáo hội La Mã đã không Chào đón Phúc Âm trong giai đoạn đầu bởi vì thuyết độc thần của Cơ Đốc Giáo đối lập với thuyết đa thần của người La Mã. Người La Mã tin rằng tất cả mọi thứ bao gồm: con người, nơi chốn và vật dụng đều có thần linh. Do họ tiếp nhận niềm tin dân gian của những giống dân mà họ đánh bại nên ngày càng có nhiều thần của các tôn Giáo du nhập vào La Mã. Có rất nhiều thần khác nhau tại La Mã: Demeter – nữ thần của Trái đất, Apolo – thần Mặt trời, Zeus – vua của các vị thần, Aselepius – thần Y, Hera – nữ hoàng của các thần,….
Thuyết độc thần của Cơ đốc giáo xuất hiện vào giai đoạn này đối đầu với thuyết đa thần giáo của người La Mã. Đặc biệt, bởi vì người La Mã đã tiếp nhận tất cả thần của các giống dân mà họ chinh phục để cai trị và đạt mục đích chính trị, điều này dẫn đến mâu thuẫn với Cơ đốc giáo. Cho nên, Hoàng đế La Mã đã ra lệnh giết hại các Cơ đốc nhân.
Hội Thánh đầu tiên bị bắt bớ dưới tay rất nhiều Hoàng đế La Mã nhưng có một sự kiện trong thời kỳ trị vì của Hoàng đế Constantine vào thế kỷ thứ 4. Vào năm 313 Hoàng đế Constantine ban sắc lệnh Milan. Chỉ dụ này phê duyệt Cơ đốc giáo là tôn giáo hợp Pháp tại La Mã và ban các đặc quyền pháp lý cùng miễn nghĩa vụ quân sự và nghĩa vụ thuế cho các tu sĩ Cơ đốc giáo. Constantinople có mục đích chính trị ở dưới chính sách ưu đãi này. Lí do chính là đạo Mithra – tôn giáo thờ thần mặt trời- đã lan truyền khắp La Mã. Nhưng các hoàng đế La Mã lại muốn tôn mình làm thần và buộc người dân thờ phượng họ. Giới quý tộc lại say mê tôn giáo Ai Cập huyền bí. Vì vậy, nhà nước La Mã bị chia rẽ về mặt nội bộ tôn giáo. Về vấn đề này, Constantine muốn lợi dụng Cơ đốc giáo đã lan truyền khắp La Mã, bất chấp các lệnh tàn sát lúc đó. Ông cho rằng, Cơ đốc giáo có thể củng cố đế quốc mình bằng việc phê chuẩn Cơ đốc giáo làm quốc giáo của La Mã, Constantine muốn thống nhất Đế quốc La Mã dưới một tôn giáo.
Nhờ chính sách công nhận Cơ đốc giáo mà nhiều người theo đa thần giáo La Mã lũ lượt kéo đến các nhà thờ Cơ đốc. Tuy nhiên, sự cải đạo vô thức chẳng cần hiểu biết gì về Đức tin của họ chỉ làm cho những tập tục ngoại giáo tràn vào khắp các nhà thờ. Các tín đồ đã thần giáo La Mã bề ngoài có vẻ như đã cải đạo nhưng thực ra không dễ để họ từ bỏ các quyền lợi tôn giáo và cơ sở tôn giáo nơi họ thờ thần mặt trời, mặt trăng, ngôi sao và các thần khác nhau.
Giáo Hội La Mã đã tìm ra giải Pháp để thu phục lòng dân ngoại khi họ cải đạo thành Cơ đốc giáo. Đó là đưa các thứ tương tự các thần mà họ tin vào trong nhà thờ.
Hội Thánh tại La Mã đã từng bị bức hại và khinh miệt mà nay trở nên tôn giáo được công nhận bất chấp việc bị pha trộn với thuyết đa thần giáo của người La Mã. Lí do là vì họ muốn giữ Đức tin trong sự yên bình, không bị bức hại, khổ sở.
Để thu hút nhiều dân ngoại, Giáo hội La Mã đã cơ đốc hóa nhiều thần ngoại giáo cho trùng hợp với Kinh Thánh. Tiêu biểu trong số đó là họ chấp nhận nghi thức thờ thần ngoại giáo – tục thờ thần mặt trời. Giáo hội La Mã xác định Đức Chúa Jesus là thần mặt trời.
“Tất cả thẩm phán, dân thành thị và thợ thủ công sẽ nghỉ vào ngày của thần mặt trời đáng tôn kính” – chỉ dụ của Hoàng đế Constantine ban hành năm 321 SCN đóng vai trò quan trọng trong việc cắm rễ tục thờ thần mặt trời vào trong nhà thờ.
“Hoàng đế Constantine tiếp tục xác định thần mặt trời là Đức Chúa Trời của Cơ đốc giáo bằng nhiều cách…. Vào năm 321 SCN, Constantine lập ngày đầu tiên trong tuần là ngày nghỉ, và gọi đó là ngày của thần mặt trời đáng kính (tức Chủ Nhật)”
“Các nhà thờ Cơ đốc tiếp thu các ý tưởng và hình tượng ngoại giáo từ nghi thức thờ thần mặt trời. Ví dụ, cho tổ chức sinh nhật Đấng Christ vào ngày 25/12 – ngày sinh của thần mặt trời.”
Tim Dowley, The History of Christianity, Long Publishing.
Do pha trộn sự thờ thần mặt trời với Cơ đốc giáo, Giáo hội La Mã đã đánh mất đi sự thánh khiết của Hội thánh sơ khai và thay đổi diện mạo thành Giáo hội Công giáo La Mã.
4. Cơ cấu tổ chức của Giáo hội Công giáo La Mã:
Cơ cấu tổ chức: Cơ cấu tổ chức của Giáo hội Công giáo La Mã bao gồm ba cấp chính quyền chính thức: Giáo triều Vatican, địa phận (còn được gọi là nhà thờ địa phương) và giáo xứ (còn được gọi là giáo hội cơ sở). Ngoài ra, Giáo hội Công giáo La mã còn có các cơ quan trung gian mang tính chất liên bang như các tỉnh, khu vực và quận.
5. Phẩm trật của Giáo hội Công giáo La Mã:
Giáo hội Công giáo Rôma phân chia các chức phẩm theo phẩm trật gồm có: Giáo hoàng, Giám mục, Linh mục và Phó tế. Ngoài những chức vụ này, còn có danh hiệu hồng y, người mang chức thánh để hoàn thành nhiệm vụ mục vụ và bí tích của nhà thờ.