Thế giới ngày nay được đánh dấu bằng những mối giao lưu nhờ sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật, nhất là trong lĩnh vực truyền thông đại chúng. Con số những cuộc hôn nhân giữa những người khác đạo càng ngày càng gia tăng. Đây là một trong những ưu tư đặc biệt của Hội Thánh Thiên Chúa giáo đối với đời sống hôn nhân và gia đình của con cái mình, vì những cuộc hôn nhân này thường gặp nhiều khó khăn do những khác biệt về niềm tin.
1. Hôn nhân khác đạo là gì?
Hôn nhân khác tôn giáo (khác đạo) là hôn nhân giữa một bên là người theo Thiên Chúa giáo và bên kia là người không theo Thiên Chúa giáo. Ở Việt Nam, ngay cả ngày nay, vẫn có một thái độ nghiêm khắc đối với con cái trong các cuộc hôn nhân khác tôn giáo. Nếu bên không theo Thiên Chúa giáo; nhưng họ được rửa tội trong nhà thờ Tin lành hay Chính thống giáo, cuộc hôn nhân này được gọi là hôn nhân dị tính hay hỗn hợp. Nếu bên Thiên Chúa giáo không được rửa tội; thì cuộc hôn nhân này được gọi là dị giáo hay nói cách khác là hôn nhân khác đạo. Theo luật giáo hội hiện hành:
‐ Các cuộc hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp với sự cho phép rõ ràng của cơ quan giáo hội.
‐ Hôn nhân khác tôn giáo chỉ thành sự khi có sự cho phép rõ ràng của giáo quyền.
Vì thế, nếu hai người dự định kết hôn khác tín ngưỡng, thì theo giáo huấn Thiên Chúa giáo, họ phải hiểu và chấp nhận mục đích và đặc điểm chính của hôn nhân theo giáo lý Thiên Chúa giáo. Bên Thiên Chúa giáo cam kết giữ vững đức tin của mình; để đảm bảo rằng con cái của họ được rửa tội và giáo dục trong Giáo hội Công giáo. Cần phải làm cho bên không Thiên Chúa giáo nhận thức rõ về những vấn đề này.
2. Pháp luật quy định như thế nào về Hôn nhân khác đạo:
Thời kỳ hôn nhân là thời kỳ tồn tại quan hệ tình cảm giữa nam và nữ; được tính từ ngày đăng ký kết hôn đến ngày chấm dứt hôn nhân. Đồng thời, quan hệ vợ chồng chỉ được xác lập khi các bên kết hôn. Khi đăng ký kết hôn, hai bên nam, nữ phải thực hiện một số điều kiện được quy định tại Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, chẳng hạn như: Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên; hai bên tự nguyện đi đến hôn nhân; không bên nào mất năng lực hành vi dân sự; Không nằm trong các trường hợp bị cấm kết hôn như kết hôn giả tạo, tảo hôn, cưỡng ép kết hôn, có vợ/chồng nhưng lấy vợ/chồng khác, kết hôn trong vòng 3 đời… Trước hết, việc kết hôn phải được đăng ký và thực hiện bởi cơ quan có thẩm quyền. Không đăng ký thì không có giá trị pháp lý và quan hệ đó không được pháp luật công nhận.
Tôn giáo không phải là trở ngại cho hôn nhân, và luật không cấm những người khác tôn giáo kết hôn. Bởi vì trong đạo Thiên Chúa, nếu hai người khác đạo muốn kết hôn, thì người không theo đạo chỉ cần học giáo lý hôn nhân, nghĩa là khi cưới ai muốn được công nhận thì chỉ cần học thêm giáo lý hôn nhân. Cũng có trường hợp bên này không cần học giáo lý, trừ khi bên kia yêu cầu. Học giáo lý là một hình thức, không phải là một đòi hỏi, vì vậy bạn có thể tham dự mà không cần đi lễ hàng tuần và sống với nhau như vợ chồng trong tinh thần tôn trọng lẫn nhau.
3. Nghi thức cưới người khác đạo:
Bây giờ, nếu bạn kết hôn với một Cơ đốc nhân (người theo Thiên Chúa giáo), hôn lễ của bạn sẽ được cử hành trong nhà thờ. Bạn gửi nhẫn cưới cho cha để làm phép lên nhẫn, đồng thời cần nhờ hai người có mặt làm chứng cho cô dâu chú rể. Bí tích Hôn phối là một trong những nghi thức hôn nhân thiêng liêng nhất của người theo đạo Thiên chúa. Trước Chúa, đôi bên đã thề chung thủy, chăm sóc nhau dù khó khăn, bệnh tật, đồng thời chấp nhận con cái chứa ban. Người có đạo thường học văn hóa ở trường và cũng đọc sách, học giáo lý khai tâm và lãnh nhận các bí tích rửa tội và bí tích thánh thể. Sau đó họ tham dự các lớp thêm sức và lãnh nhận bí tích thêm sức. Thời gian hoàn tất các bí tích này thường là 6-7 năm. Nếu bạn muốn kết hôn với một Cơ đốc nhân, bạn phải tham gia các khóa học để theo kịp với họ. Thông thường ít nhất là 6 năm.
Tùy theo giáo xứ và chương trình học, thời gian có thể từ 6-8 tháng. Giờ học giáo lý giúp các học viên hiểu rõ hơn về đạo và đón nhận đạo với trọn niềm tin. Đồng thời phải học thuộc các bài kinh được yêu cầu trong lớp giáo lý. Các tân tòng cử hành thánh lễ trọng thể và đồng thời lãnh nhận các bí tích rửa tội, thêm sức và thánh thể. Tuy nhiên, bạn nên biết rằng cần phải có người đỡ đầu cho lễ rửa tội và xác nhận tư cách thành viên. Vì vậy, bạn phải nhờ người cùng giới tính và cùng tín ngưỡng đứng ra đỡ đầu. Và quan trọng nhất, nếu được chính thức nhận làm con Thiên Chúa, bạn phải thực hiện điều răn “xưng tội mỗi năm ít nhất một lần”.
Trước lễ cưới tại nhà thờ chính tòa, nhà thờ thông báo rằng bạn sẽ kết hôn trong ba thánh lễ Chúa nhật liên tiếp. Mục đích của câu chuyện này là những người phản đối cuộc hôn nhân này nên báo cáo với cha xứ. Tuy nhiên, nếu bạn muốn nhận được thông báo, bạn phải cung cấp cho cha xứ giấy chứng nhận kết hôn và giấy chứng chỉ giáo lý hôn nhân.
Nghi thức kết hôn giữa người khác đạo
Nhà thờ cho phép người Công giáo kết hôn với người không theo Công giáo thông qua “chuẩn hôn phối”. Phép chuẩn này được cấp bởi chính quyền địa phương. Để làm phép chuẩn hôn phối khác đạo, cần chuẩn bị những giấy tờ sau: Giấy chứng nhận giáo lý hôn nhân; Đăng ký kết hôn; Nhẫn cưới; hai người làm chứng cho mỗi bên; Sổ gia đình công giáo (bản gốc).
Bước 1: Học lấy Chứng chỉ Giáo lý Hôn nhân
Bạn phải mang theo giấy giới thiệu của cha sở và 2 ảnh thẻ để xem lịch học và đăng ký lớp học thích hợp. Thời gian học dự kiến khoảng 3 tháng.
Bước 2: Đăng ký kết hôn
Bạn đến Ủy ban nhân dân xã/ thị trấn nơi bạn sinh sống để đăng ký kết hôn và gửi bản sao cho giáo xứ nơi bạn làm phép chuẩn. Nếu bạn có cả giấy chứng nhận kết hôn và chứng chỉ giáo lý hôn nhân thì hãy đi đến một nhà thờ để yêu cầu làm phép khác đạo. Ngoài hai bên gia đình, bạn phải nhờ hai người chứng kiến lễ cưới đồng thời chuẩn bị nhẫn cưới để Cha xứ chúc phúc cho chiếc nhẫn.
Bước 3: Làm phép chuẩn trong Nhà thờ
Khi bạn đến nhà thờ, làm đơn xin chuẩn khác đạo. Tin tức về cuộc hôn nhân của hai người sẽ được thông báo khắp nhà thờ và sẽ tiếp tục cho đến ba thánh lễ Chúa nhật tới. Trước mặt Chúa, mỗi bên hứa chung thuỷ, chăm sóc nhau dù khó khăn, bệnh tật, đồng thời chấp nhận làm con Chúa.
4. Giáo luật về Hôn nhân khác đạo:
Ở Việt Nam hiện nay vẫn còn nhiều nhà cầm quyền và các bậc cha mẹ tỏ thái độ rất chừng mực và nghiêm khắc đối với con cái khác tôn giáo: “Mày phải cải sang đạo Công giáo mới được kết hôn!”. Người khác thì quá dễ dãi: “Mọi người đều có niềm tin, không cần chuẩn bị gì cả!” Không có vị trí nào trong số này phù hợp với ý chí của Thiên Chúa giáo. Hội Thánh có phép chuẩn cho những hôn nhân khác tôn giáo. Theo luật hiện hành của Giáo hội: – Hôn nhân hỗn hợp chỉ hợp pháp khi có sự cho phép rõ ràng của nhà chức trách giáo hội (giám mục).
Các cuộc hôn nhân không theo tôn giáo chỉ hợp lệ khi có sự cho phép rõ ràng của nhà chức trách giáo hội.
Do đó hôn nhân hỗn hợp hoặc khác tôn giáo, cặp vợ chồng nên nói chuyện với cha xứ để được hướng dẫn về thủ tục xin phép chuẩn nơi Đức giám mục giáo phận.
5. Tại sao Hội Thánh bận tâm và tỏ ra dè dặt về hôn nhân khác đạo?
Giáo hội biết rằng, cùng với tình yêu, tôn giáo là một trong những yếu tố quan trọng nhất trong đời sống hôn nhân và gia đình, bởi vì đức tin không chỉ ảnh hưởng đến suy nghĩ và hành vi, mà còn ảnh hưởng đến những lựa chọn liên quan đến các vấn đề của cuộc sống, nhất là trong việc giáo dục con cái. Vì những khác biệt sâu xa như vậy, hôn nhân khác đạo thường gặp nhiều trở ngại, hạnh phúc khó đạt được, và người Công giáo thiệt thòi nhiều hơn khi ly hôn, vì không thể tái hôn, chừng nào người kia còn sống.
Tục ngữ Việt Nam có câu: “Thuận vợ thuận chồng tát bể Đông cũng cạn”. Để gia đình hạnh phúc, cả chồng và vợ đều phải nỗ lực, cố gắng. Đó không phải là điều dễ dàng, bởi thực tế giữa họ có khá nhiều điểm khác biệt: khác biệt về giới tính, tính cách, học vấn, gia đình, lối sống… Nếu họ có cùng niềm tin tôn giáo, có nền tảng vững chắc thì họ có khả năng vượt qua khó khăn thử thách, họ biết phân biệt vận dụng để bổ sung cho nhau và làm phong phú thêm đời sống gia đình. Lúc đó, người bạn đời cũng là một người bạn cùng đạo, cả hai đều có chung một tâm nguyện, đó là xây dựng một tổ ấm gia đình hạnh phúc trong yêu thương và đoàn kết.
Những khó khăn trong cuộc hôn nhân hỗn hợp giữa một người Thiên Chúa giáo và một Kitô hữu thuộc hệ phái khác (Tin lành, Chính thống…) không phải là nhỏ. Những khó khăn này bắt nguồn từ những khác biệt giữa các giữa các Kitô hữu vẫn chưa được giải quyết. Một cặp vợ chồng có thể trải qua một bi kịch trong gia đình của họ. Tuy nhiên, những khó khăn này có thể vượt qua nếu vợ chồng biết cố gắng kết hợp những điều tốt đẹp nhận được trong cộng đồng của mình và cùng nhau học hỏi, chia sẻ để giúp nhau sống trung thành với Đức Chúa Trời – người Kitô hữu sẽ gặp nhiều khó khăn hơn. Những bất đồng về tín ngưỡng và hôn nhân có thể tạo ra căng thẳng trong gia đình, đặc biệt là khi nuôi dạy con cái. Giáo hội xác tín rằng đức tin Kitô giáo mà con cái mình đón nhận là một quà tặng không thể thay thế của Đức Chúa Trời. Giáo hội không muốn niềm tin này mai một, nhưng luôn có những điều kiện thuận lợi để nó tồn tại và phát triển. Vì vậy, nhà thờ luôn yêu cầu hai bên thỏa thuận trước khi bước vào hôn nhân có phép chuẩn.