Chúa nhật Lễ Lá là ngày lễ lớn và trang trọng của người Công giáo. Vậy bạn đã biết đến ngày lễ này chưa nếu chưa sau đây bài viết này sẽ giúp bạn tìm hiểu về Lễ Lá là gì? Ý nghĩa Chúa nhật Lễ Lá của người Công giáo?
1. Lễ Lá là gì?
Các cộng đồng Công giáo và Tin lành kỷ niệm Chúa Nhật Lễ Lá. (Cộng đồng Cơ đốc giáo Chính thống kỷ niệm muộn hơn khi họ theo lịch Julian.) Điều này đánh dấu sự khởi đầu của Tuần Thánh, theo lịch sử là thời gian thiêng liêng nhất trong năm đối với những người theo đạo Cơ đốc.
Ngày này được gọi là “Chúa Nhật Lễ Lá” và “Chúa Nhật Thương Khó.”
Tên đầu tiên xuất phát từ thực tế là nó kỷ niệm việc Chúa Giê-su khải hoàn vào thành Giê-ru-sa-lem, khi đám đông cầm cành cọ (Giăng 12:13).
Tên thứ hai xuất phát từ thực tế là trình thuật Cuộc Thương Khó được đọc vào Chúa Nhật này (nếu không thì sẽ không được đọc vào Chúa Nhật, vì Chúa Nhật tới là về Sự Phục Sinh).
Theo tài liệu chính về việc cử hành các lễ liên quan đến lễ Phục sinh.
Tuần Thánh bắt đầu vào “Chúa nhật Lễ Lá (hoặc Lễ Lá)” tham gia vào việc báo trước cuộc chiến thắng vinh quang của Chúa Kitô và việc công bố cuộc khổ nạn. Mối liên hệ giữa cả hai khía cạnh của Mầu nhiệm Vượt qua cần được thể hiện và giải thích trong việc cử hành và giáo lý của ngày này.
Buổi lễ vào Chủ nhật Lễ Lá cũng bao gồm việc đọc Bài Thương khó, tức là câu chuyện về sự đau khổ và đóng đinh của Chúa Giê-su người Na-xa-rét. Trong nhà thờ ngày nay, người ta hết sức cẩn thận để đảm bảo rằng câu chuyện về cái chết của Chúa Giê-su không được trình bày theo cách bài Do Thái. Cái chết của Chúa Giêsu được các Kitô hữu coi là sự cứu rỗi và như một lời nhắc nhở về việc các nhà tiên tri thường bị giết như thế nào khi họ đấu tranh cho công lý và hòa bình.
2. Ý nghĩa Chúa nhật Lễ Lá của người Công giáo?
Chúa nhật Lễ Lá đem lại 3 ý nghĩa lớn đối với người Công giáo:
– Thứ nhất là, Chúa Nhật Lễ Lá là ngày kỷ niệm cuộc vào thành Giêrusalem long trọng của Chúa Giêsu trước khi Người chịu khổ nạn và ra đi. Trước sự kiện đó cho chúng ta thấy rằng Chúa Giêsu biết giờ của Người đã đến, biết Người phải làm gì và đã tự nguyện bước vào cái chết để tạo ra những sự sống mới, sinh ơn cứu độ. Chúa Giêsu đã tự hy sinh để chu toàn thánh ý của Chúa Cha. Mặc dù trước đó nhiều lần, những người Do Thái đã chống đối người bằng cách âm mưu giết Người bằng những hành động giã man như: ném đá Người hoặc xô Người xuống vực thẳm, nhưng những người đó đã không thực hiện được ý đồ của mình, vì giờ của Người chưa đến. Và sau đó cũng đã nhiều lần dân chúng hợp lại đồng lòng tôn phong Người lên làm vua, nhưng Chúa Giêsu đã từ chối, trốn tránh đi nơi khác cũng chỉ vì giờ của Người chưa đến.
– Với ý nghĩa thứ hai, Lễ Lá là ngày lễ lớn để tôn kính Chúa Kitô là Vua. Bởi vì đây là lần đầu tiên trong suốt cuộc đời trần thế, Chúa Giêsu đồng ý để cho dân chúng tôn sùng, tung hô Người là Vua. Người vào Giêrusalem, cũng chính là thành của vua cả, bởi chính vì phong cách đế vương trong thành của vua cả mà Chúa Giêsu đã bị kết án tử hình. Bản án kết tội đó được viết bằng ba ngôn ngữ, Do Thái, La Tinh và Hy Lạp. Vì thế, mặc cho Người bị kết tội tử hình bằng một cực hình dã man, nhục nhã và đầy đau đớn, đóng đinh chân tay căng thây trần truồng trên Thập Giá, nhưng các sách Phúc Âm đều ghi lại với việc đặc tả nét vương giả của Người để khơi mào một vương quốc mới. Vương quốc đó được xây dựng từ sự thật và sự sống, vương quốc của yêu thương và an bình.
– Đến với ý nghĩa thứ ba, Chúa Nhật Lễ Lá nhắc cho con người hiểu được rằng để tồn tại được trên đời phải đối mặt với nhiều đau khổ, vì lễ Lá dẫn đưa chúng ta vào cuộc khổ nạn của Chúa Giêsu, cho chúng ta được thấy cái chết đau thương của Người trên đồi Canvê. Khi chúng ta chấp nhận bằng lòng vác thập giá mình mà theo chân Chúa Giêsu, đó là chúng ta cũng thấu hiểu và chia sẻ gánh nặng của Người, Người là tấm gương để vác thập giá, nhưng điều quan trọng truyền tải ở đây là không phải vác đi trong than khổ mà trong hy vọng vào cuộc sống mới. Vì với Người, đau khổ và chết chóc không dồn con người vào ngõ bí, mà là dẫn đưa đến vinh quang của ngày sống lại.
3. Một số thông tin về ngày thánh lễ Chúa nhật Lễ Lá:
Theo truyền thống thì việc tưởng nhớ Chúa Giêsu vào thành Giê-ru-sa-lem sẽ được cử hành bằng cuộc rước trọng thể. Đầu tiên, vị chủ tế sẽ làm phép lá trước, sau đó mọi người sẽ được phân phát những cành lá này. Tiếp theo, cộng đoàn cùng nhau rước kiệu diễu hành với lá cọ trên tay, điều này đại diện cho sự chào mừng Chúa Giêsu khi ông vào thành Giê-ru-sa-lem.
Loại lá gì dùng trong Lễ Lá?
Theo như ghi chép lại, khi xưa, người dân đã cầm nhành lá thiên tuế để tung hô Chúa Giê-su. Vào thời cổ đại, những cây thiên tuế được coi trọng và tôn kính như là những cây thánh. Tại phương Đông, khi các quân nhân giành chiến thắng trở về thì người ta thường vinh danh họ bằng cách trao cho những nhành lá thiên tuế.
Ở Việt Nam, với khí hậu thuận lợi, cây thiên tuế có thể sống ở khắp nơi. Vào ngày Lễ Lá, những người theo đạo không chỉ sử dụng cành thiên tuế, nhưng thay vào đó chúng ta cũng có thể sử dụng lá dừa, và thậm chí cả lá cau nữa để đi rước. Bởi sở dĩ như thế là vì cây dừa và cây cau cũng cùng thuộc dòng họ với cây thiên tuế, nhưng lại phổ biến và dễ dàng kiếm được hơn.
Lá được làm phép để làm gì?
Lá cây thiên tuế được làm phép để thánh hóa chúng, nghĩa là dâng tặng chúng cho Chúa, qua đó nhắc nhở chúng ta Chúa Ki-tô là Thiên Chúa vinh thắng.
Lá cần được giữ gìn như thế nào?
Theo Giáo luật Công Giáo, những vật thánh đã được làm phép thì không được phép quăng vào thùng rác, mà phải được hành xử cách tôn trọng (điều 1171). Vì vậy sau khi làm phép, lá cây thiên tuế được giữ lại tại các gia đình.
Từ nhiều thế hệ trôi qua, người ta vẫn dùng lá cây thiên tuế đã làm phép để trang trí nhà của họ. Có thể đơn giản là treo chúng sau ảnh tượng thánh hay Thánh Giá, hoặc biến chúng thành hình những hoa hồng bằng lá dừa. Và đến Mùa Chay năm sau có thể gom lại tại Giáo Xứ để đốt dùng cho ngày Thứ Tư Lễ Tro.
Tại sao chúng ta sử dụng cành cọ vào Chúa Nhật Lễ Lá?
Lòng bàn tay tượng trưng cho chiến thắng trong thế giới cổ đại. Cả bốn sách Phúc âm đều cho chúng ta biết rằng người ta đã chặt những cành cây cọ và đặt chúng ngang qua lối đi của Chúa Giê-su và vẫy chúng trong không khí khi ngài tiến vào thành Giê-ru-sa-lem một cách đắc thắng một tuần trước khi qua đời. Khi Giáo hội bước vào Tuần Thánh, các tín hữu sử dụng lá tay để kỷ niệm chiến thắng và cuộc khổ nạn của ngài trong phụng vụ.
4. Chúa Giêsu làm gì trong khi vào Thành Thánh?
Đức Giáo Hoàng Danh Dự Bênêđictô XVI giải thích:
Chúa Giê-su tuyên bố quyền của các vị vua, được biết đến từ thời cổ đại, được trưng dụng các phương thức vận chuyển.
Việc sử dụng một con vật mà chưa có ai ngồi lên là một dấu hiệu xa hơn về quyền của các vị vua. Tuy nhiên, đáng chú ý nhất là những ám chỉ trong Cựu Ước mang lại ý nghĩa sâu sắc hơn cho toàn bộ tình tiết. . . .
Bây giờ chúng ta hãy lưu ý điều này: Chúa Giê-su thực sự đang đưa ra lời tuyên bố của hoàng gia. Anh ấy muốn con đường và hành động của mình được hiểu theo nghĩa của những lời hứa trong Cựu Ước được thực hiện nơi con người anh ấy. . . .
Đồng thời, qua việc neo chặt bản văn này trong Xa-cha-ri 9:9, một lối chú giải “Cuồng nhiệt” về vương quốc bị loại trừ: Chúa Giê-su không xây dựng trên bạo lực; anh ta không xúi giục một cuộc nổi dậy quân sự chống lại La Mã. Quyền năng của Người thuộc một loại khác: chính trong sự nghèo khó của Thiên Chúa, bình an của Thiên Chúa, mà Người xác định được quyền năng duy nhất có thể cứu chuộc.
5. Việc tái hiện Chúa nhật Lễ Lá:
Ngay sau khi Phục sinh, những người theo đạo Cơ đốc muốn đến thăm các địa điểm diễn ra cuộc khổ nạn của Chúa Giê-su Christ và thậm chí diễn lại những sự việc đã xảy ra, chẳng hạn như việc Ngài vào thành Giê-ru-sa-lem. Nhưng hoạt động như vậy sẽ không thể thực hiện được cho đến thế kỷ thứ tư khi Constantine trở thành hoàng đế của Đế chế La Mã và chấm dứt mọi cuộc đàn áp tôn giáo. Vào cuối thế kỷ đó, một người hành hương Tây Ban Nha tên là Eigera đã đến thăm Giê-ru-sa-lem. Trong nhật ký của mình, cô ấy đã ghi lại cách những người theo đạo Cơ đốc tái tạo các sự kiện trong Tuần Thánh. Cô ấy viết rằng họ đã tụ tập bên ngoài thành phố vào Chủ nhật trước Lễ Phục sinh và lắng nghe một trong những sách Phúc âm kể về cuộc khải hoàn của Chúa Giê-su Christ vào thành Giê-ru-sa-lem. Sau đó, họ cùng nhau diễu hành qua các cổng thành trong khi mang theo cành ô liu hoặc chà là. Các cuộc rước vào Chúa Nhật Lễ Lá của chúng ta giống với những gì mà Eigera đã chứng kiến cách đây 17 thế kỷ.
Đến thế kỷ thứ chín, cuộc rước với những cây cọ được ban phước đã mở rộng ra ngoài Jerusalem và trong thời Trung cổ đã trở nên phổ biến khắp châu Âu. Vào thế kỷ 17, những người theo đạo Thiên chúa không chỉ cầm lá tay rước vào nhà thờ mà trong Thánh lễ, họ còn cầm lá cọ khi đọc Bài Thương khó.
Qua nhiều thế kỷ, Chúa Nhật Lễ Lá và cuộc rước của những người cầm lá sẽ được cử hành theo nhiều cách khác nhau. Ở một số nơi, Thánh Thể là một phần của cuộc rước, ở những nơi khác, cộng đoàn bắt đầu ở nghĩa trang giáo xứ và sau đó đi vào nhà thờ. Đôi khi người ta làm phép lá ở một nhà thờ và giáo dân mang theo lá đi diễu hành đến một nhà thờ khác để dự Thánh lễ. giữa thế kỷ 20, linh mục mặc lễ phục màu đỏ khi làm phép và rước kiệu, sau đó đổi sang lễ phục màu tím trong Thánh lễ.
Vào năm 1955, Giáo hội đã tiêu chuẩn hóa và đơn giản hóa các lối vào khác nhau được sử dụng vào Chủ nhật Lễ Lá: một cuộc rước có tổ chức bắt đầu ở đâu đó bên ngoài nhà thờ, một cuộc rước long trọng bắt đầu bên trong nhà thờ hoặc không có cuộc rước nào cả. Một cuộc rước vào cổng bắt đầu từ một địa điểm bên ngoài nhà thờ chỉ được sử dụng một lần trong các Thánh lễ cuối tuần; nó không được lặp lại trong mỗi Thánh lễ. Giáo hội gọi ngày này là Chúa Nhật Lễ Lá về Cuộc Thương khó của Chúa.