Dàn ý phân tích tình huống truyện Vợ nhặt? Bài mẫu số 1 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt? Bài mẫu số 2 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt? Bài mẫu số 3 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt? Bài mẫu số 4 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt?
Phân tích vấn đề cốt truyện trong tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân, dưới đây là những cách tiếp cận tác phẩm rất mới lạ, độc đáo được tuyển chọn từ những bài văn hay của các em học sinh lớp 12. Tham khảo khảo sát một số bài văn mẫu phân tích truyện đặc sắc của tác phẩm “Vợ nhặt” được chúng tôi tổng hợp trong bài viết dưới đây!
1. Dàn ý phân tích tình huống truyện Vợ nhặt:
Mở bài:
Giới thiệu sơ lược về tác giả, tác phẩm:
– Kim Lân là nhà văn hết lòng quay về với “đất”, về với “người”, về với cái “thuần nguyên thủy” của đời sống nông thôn.
– Nạn đói năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn, nhà thơ, trong đó có Vợ nghèo của Kim Lân.
Dẫn dắt, giới thiệu vấn đề: Nét độc đáo về tình yêu trong tác phẩm Nhặt Vợ.
Thân bài
* Khái niệm tình huống câu chuyện
Vấn đề cốt truyện là một tình huống cụ thể do một sự kiện đặc biệt tạo nên, trong đó cuộc đời hiện ra rõ nét nhất, bộc lộ rõ nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.
Trạng thái truyện đóng vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.
* Phân tích tình huống để giải quyết vấn đề:
Hoàn cảnh phát triển truyện:
– Bối cảnh của trận thiên tai khủng khiếp năm 1945 làm hơn hai triệu người chết.
– Không khí nghiêm trọng, thê lương, sự sống luôn bị cái chết đe dọa.
Tóm tắt vấn đề: Tràng là một anh chàng ở trọ, xấu xí, nghèo khó, thế mà Tràng lại “rước” vợ một cách tùy tiện, quá dễ dãi dù trong thời buổi nghèo khó chỉ vài ngày. câu ca dao , vài câu đùa và vài bát bánh đúc.
Những chi tiết độc đáo của sự việc giải quyết câu chuyện:
– Ở Tràng, có nhiều yếu tố khiến nguy cơ “hụt” vợ rất cao:
Ngoại hình xấu xí, thô kệch.
Bản chất hơi khác thường.
Nói nhiều, thô lỗ.
Nhà nghèo, làm lụng nuôi mình và mẹ già.
Nạn đói đe dọa, cái chết đeo đuổi.
– Lấy chồng là kiếm thêm cho mình một người để nương tựa (theo logic tự nhiên).
– Cuộc hôn nhân của Tràng thật tình cờ
Toàn bộ xóm làng là cũng không khỏi bất ngờ.
Bà Tứ cũng rất bình tĩnh
Bản thân Tràng đã có vợ nhưng cũng vẫn còn “nghi ngờ” vào sự thật đang diễn ra trước mắt mình.
– Tình tiết truyện bất ngờ nhưng rất hợp lý:
Nếu không có cảnh đói kém khủng khiếp thì “người ta” đã chẳng muốn lấy một người như Tràng.
Trang lấy vợ theo kiểu “nhặt được”.
* Giá trị của sự cố câu chuyện
Giá trị thực hiện: Phác họa cảnh bi thảm của người con trong nạn đói. Cái đói đuổi theo con người cho đến dục vọng bóp méo nhân cách con người. Điều khiến bạn khao khát hạnh phúc là một điều thực sự tồi tệ, tội nghiệp.
Qua cốt truyện nhà văn miêu tả chân thực người nông dân Việt Nam xưa đã gián tiếp tố cáo tội ác của thực dân Pháp, phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
Giá trị nhân đạo: Tính nhân văn cao đẹp được thể hiện qua cách các nhân vật đối xử với nhau. Thiên chức, bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức ở người “Vợ Nhặt” cho đến Tình thương con của bà Tú.
Con người luôn hướng về cuộc sống và luôn hi vọng, tin tưởng vào tương lai: Người chồng chăm sóc vợ là để duy trì sự sống. Trong khi Bà cụ luôn nói về ngày mai với những kế hoạch thiết thực để tạo niềm tin cho con dâu về một cuộc sống tốt đẹp. Đoàn kết công việc với hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho chào đón Nhật Bản.
Kết bài:
Khẳng định tài năng của nhà văn thông qua việc xây dựng tình huống độc đáo, hấp dẫn.
Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm.
2. Bài mẫu số 1 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt:
Đối với nghệ thuật truyện ngắn, cần tạo được tình huống giải quyết vấn đề độc đáo, mới lạ để làm nổi bật vấn đề, làm nổi bật tâm trạng, suy nghĩ, tính cách nhân vật và chủ đề của tác phẩm. Một truyện ngắn đặc sắc được bố cục xoay quanh vấn đề như vậy, mà Vợ nhặt của Kim Lân là một ví dụ điển hình.
Người vợ nhặt hấp dẫn bởi đã tạo ra một tình huống giải quyết vấn đề độc đáo và hấp dẫn. Đó là tình cảm của nhân vật Tràng, một anh chàng nghèo xấu xí ở trọ (bị dân làng khinh bỉ), giữa cơn đói khát đã lấy được vợ. Đó là một điều kỳ lạ vì hai lý do. Người như Tràng mà lấy được vợ thì chỉ có vợ theo thôi! Thời nay người như Trang còn không lo lấy được vợ!
Nhưng điều không tưởng, quay lại hiện thực. Bởi lẽ, nếu năm ấy không đói, dân không đói khổ thì ai thèm lấy Tràng làm chồng. Còn đây là “nhặt vợ”, không cần che đám cưới. Năm đói đến mấy, người như Tràng cũng lấy được vợ.
Chuyện tình này dẫn đến sự ngỡ ngàng của cả làng, của bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và của chính Tràng. Như vậy, vấn đề này đã tạo điều kiện cho câu chuyện phát triển, dễ dàng phát triển với những cảnh có tình tiết rất hấp dẫn: Cảnh hàng xóm xì xào bàn tán khi Tràng đưa vợ về nhà.
Cảnh trong một buổi tối bà cụ Tứ gặp gỡ cô con dâu và được dẫn đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác. Chuyện có vợ khiến ngay cả chính Tràng cũng phải ngạc nhiên, khiến chàng không thể tin vào sự thật. Đưa vợ về nhà kể lại sự việc và sáng hôm sau khi cưới “Nhìn thị (vợ Tràng) ngồi giữa nhà mà vẫn nghi ngờ không biết có chuyện gì xảy ra hay không. Đồng thời cũng rất xảo quyệt. Đây là vui hay buồn hay lo lắng?
Điều đó đã thúc đẩy câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn khắc họa rõ nét hơn diễn biến tâm trạng, tính cách phong phú của nhân vật. Trong tình yêu đầy sóng gió ấy, ta thấy tâm trạng mỗi người đan xen buồn vui, sợ hãi: Hàng xóm vừa mừng cho anh nhưng cũng vừa lo lắng cho anh. Bà cụ Tứ mừng cho con nhưng cũng thương và lo cho Tràng.
Riêng Tràng thì vừa mừng vừa “tủi”: “Thóc gạo này còn không nuôi nổi thân mình không mà con đèo bòng”. Lối thoát này dẫn đến hạnh phúc mong manh, tội nghiệp của đôi vợ chồng nghèo và mẹ con họ. Hạnh phúc của vợ chồng Tràng và niềm vui của bà cụ Tứ phải diễn ra trong bầu không khí im lặng, với tiếng kêu bàng hoàng của kẻ chết đói (“Giữa sự im lặng của đôi trẻ, trong xóm có tiếng ai khóc trẻ con”). Hạnh phúc của họ đến trong sự đau khổ của cái chết thê lương ấy.
Và rồi bữa đầu tiên đón nàng dâu mới tội nghiệp: ăn cháo cám. Nỗi tủi hờn xâm chiếm không gian khiến họ ai nấy cúi gằm mặt xuống để ăn. Chỉ có tình yêu thương mới thôi thúc, tạo cảnh, tạo tình tiết để nhà văn có thể viết nên những trang văn cảm động về câu chuyện “Người vợ nhặt” rất hiện thực và cũng rất nhân văn trong một cuộc khủng hoảng khủng khiếp năm 1945.
Tác phẩm “Vợ nhặt” độc đáo, hấp dẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Tình yêu này không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho câu chuyện phát triển, mở ra và phát triển dễ dàng, đẹp đẽ mà còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề của truyện: Niềm khao khát về một mái ấm gia đình và tình yêu thương giữa những người nghèo đói ngay cả trong nạn đói tồi tệ nhất.
3. Bài mẫu số 2 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt:
Thành công của mỗi truyện ngắn có sự góp mặt của nhiều yếu tố, trong đó yếu tố then chốt là: cách giải quyết, nhân vật và cách kể, nhà văn có thế mạnh riêng để tạo nên sức hấp dẫn cho các tác phẩm của mình. Kim Lân đã rất thành công trong truyện ngắn của mình khi sáng tác nên những chi tiết độc đáo của truyện. Đọc Vợ nhặt của Kim Lân, ta đã biết điều đó.
Trong Vợ nhặt của Kim Lân, tình tiết truyện đã giúp nhà văn bộc lộ tính cách, tâm lí nhân vật. Đồng thời giúp ông nói lên được những tâm tư, những điều mà bản thân muốn gửi gắm đến độc giả. Câu chuyện cũng thú vị hơn. Sự đau lòng của vợ nhặt có thể được nhìn thấy trong tiêu đề của câu chuyện. Một anh nông dân “nhặt” vợ. Nhưng bản thân anh ta có gì: nghèo, xấu và cư dân. Thế mà mới nói được vài câu thì vợ đã hùa theo về luôn.
Trước hết, sức hấp dẫn của việc nhặt vợ nằm ở đó. Như một nghịch lý, nó gây bất ngờ cho mọi trường trong xóm, đối với bà cụ Tứ, mẹ Tràng và cả chính Tràng, người đã “nhặt” được vợ anh. “…bà con hàng xóm lạ lắm: Họ còn đứng ở ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán…” Khi biết Tràng đã có vợ, họ còn ngạc nhiên hơn cả “sung sướng”. Anh ấy lại tự cảm thán cho chính cuộc đời mình: “Ôi chao! Không biết thời gian này có nuôi nhau được không?”.
Bà cụ Tứ hiểu nỗi lòng của con mình hơn ai hết nên càng khó tin Tràng đã có vợ, người phụ nữ đứng ngay cạnh giường con mình, bà cụ cứ thắc mắc: “Sao lại có người đàn bà ở trong nhỉ? tại sao lại chào mình bằng u? Ai vậy?” Bà cụ không thể hiểu được. Nghèo như con bà, ai muốn lấy làm chồng. Tại sao trời bắt tôi phải thế này, tôi không thể nuôi mình, tôi không thể cho con một cuộc sống no đủ, con tôi làm sao nuôi được vợ nó đây? Bản thân Tràng cũng bất ngờ với chính mình. Nhìn vợ ngồi giữa nhà, Tràng “còn nghi ngờ không phải thế”.
Đó là một vấn đề kỳ lạ. Nhưng khi tác giả phát hiện ra nó, mọi thứ lại càng trở nên hấp dẫn hơn. Lý do dễ hiểu làm sao, mà cũng buồn làm sao, tội nghiệp làm sao! Điều này, bà cụ gần như cả đời phải làm bạn với cái nghèo: “Bà cụ im lặng. Bà cụ đã hiểu. Tấm lòng của người mẹ nghèo ấy cũng thấu hiểu biết bao điều, vừa xót xa, vừa thương hại cho kiếp con mình. Ôi chao, người ta dựng vợ gả chồng cho con cái khi có nhà, mong cho con cái có cuộc sống ấm no sau này. Còn con mình… Trong đôi mắt của bà cụ, hai hàng nước mắt bà cụ tuôn rơi… Biết đâu họ có thể nương tựa nhau vượt qua nỗi nhớ mong này?”.
Lòng bà cụ thực sự là một mớ hỗn độn: Mừng và lo. Mừng vì con trai bà dù sao cũng có vợ dẫu cho bà đã không làm tròn bổn phận của người mẹ là lo cho các con: “ừ thì thôi, các con có nhau cả đời mẹ cũng mừng”. Nhưng buồn, tiếc vì “người ta có bước khó khăn, người đói khổ thì mới theo con mình về. Mà con mình mới có vợ…”. Như vậy, cốt truyện của truyện đã bộc lộ những diễn biến tâm trạng, tính cách sâu sắc của nhân vật. Bà Tứ thể hiện tâm lý càng phức tạp và Tràng cũng bớt lo và thể hiện niềm vui nhiều hơn. Lúc đầu là “vợ nhặt”, nhưng sau nghĩ lại, thật là một trò đùa!”. Trên đường đưa vợ về nhà, anh thấy mọi người tò mò nhìn mình. Niềm vui lấn át lý trí, đến mức anh không thể hiểu được vợ lại buồn nữa. Mẹ của anh lại khóc.
Bất ngờ “nhặt” được vợ, niềm hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá bất ngờ. Cho đến sáng hôm sau, Tràng vẫn cảm thấy “như vừa trong giấc mơ đi ra”. Và cùng với niềm vui, ý thức bổn phận, trách nhiệm với tổ ấm của mình, còn có sự ra đời. Anh thấy mình gắn bó yêu thương với mọi người, với ngôi nhà, với sân vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui và phấn khởi tràn ngập lòng chàn. Bây giờ là lúc để bắt đầu trở thành một người chồng, một người con hiếu thảo, chăm lo cuộc sống cho vợ con sau này.
Buồn nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt”. Kết hôn một vấn đề thiêng liêng là giao phó cả cuộc đời mình cho người đàn ông mình yêu. Vì thế, cô không biết Trang là ai, tốt xấu ra sao. Chỉ cần một câu tán tụng ngẫu hứng và vài bát bánh đúc là theo ngay. Cái đói đã đưa người phụ nữ đến chỗ không còn biết xấu hổ là gì, mất hết ý thức chẳng khác gì một cái sọt rác có thể “nhặt được” ở đầu đường, xó chợ.
Nhưng chủ đề Vợ Nhặt không chỉ có vậy. Câu chuyện tình yêu đã đặt nhân vật bên cạnh nanh vuốt của tử thần. Một không khí chết chóc len lỏi vào tác phẩm với mùi khói, mùi ám khói của những đống nhà có người chết kéo đến và cảm giác buồn nôn ở những người hàng xóm lúc đêm khuya. Nhưng qua diễn biến tâm trạng của nhân vật, đặc biệt là Tràng và bà cụ Tứ, chúng ta thấy được người lao động tin yêu vào cuộc sống, còn hy vọng vào tương lai, cũng khao khát một mái ấm gia đình để thương yêu nhau sẻ chia buồn vui, cùng có duyên phận cũng như tương lai chịu trách nhiệm về cuộc sống.
Đó là sự lạc quan của người dân lao động. Sự lạc quan có cơ sở thể hiện “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… lại tồn tại một mâu thuẫn lớn ở những con người luôn sống hết mình trong tình yêu và phải vật lộn để tồn tại. Với niềm tin lạc quan của mình, cuối cùng ông đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc sắp đến.
Bà cụ Tứ để lại cho người đọc những thiện ý. Thấy các con lập gia đình trong hoàn cảnh khó khăn, bà không khỏi xót xa, ngậm ngùi: “Ôi người ta dựng vợ, dựng chồng cho con lúc nhà ăn nên làm ra còn mình thì..” Tuy nhiên, bà thực sự hạnh phúc khi con trai đã bình yên: “Bà cụ hiền lành, tỉnh táo, khác hẳn ngày thường, gương mặt ủ rũ, ủ rũ của bà cũng như tươi tắn hơn…”. Rồi trong bữa ăn, cả ba mẹ con quên đi hiện thực đau lòng và hướng đến một tương lai tốt đẹp hơn.
Nghĩ đến sự sống, không nghĩ đến cái chết là có. Bà cố gắng xua tan nỗi sợ hãi thực sự, thắp lại niềm tin vào cuộc sống của các con mình. Tuy nhiên, Tràng đã nhắc nhở họ về thực tế. Chà, cháo cám! Phải thèm đến mức nào đó, người ăn cám mới thấy ngon! Cuộc sống khắc nghiệt, sự tàn sát buộc họ phải sống kiếp loài vật nhưng kiếp nào đã vượt qua phần Nhân đáng quý trong mỗi con người phần nào sẽ giúp họ vượt qua hành trình khó khăn này. Sẽ thật thiếu sót nếu bỏ qua hình ảnh những người nông dân trên đê Sộp cùng với lá cờ Việt Minh bay phấp phới.
Đó là một hình ảnh hoàn toàn không ngẫu nhiên, được nhà văn khắc họa chân thật. Đó là dấu hiệu của “bước đường cùng”, không còn cách nào cạnh tranh với cuộc sống khác, phải đứng dậy đấu tranh, hướng tới cuộc sống tốt đẹp hơn. Trước mắt người đọc lúc này, cuộc sống trở thành mục tiêu chung của mọi người; họ đấu tranh với cái chết để giành giật sự sống và hơn thế nữa họ còn mong muốn giành được độc lập cho dân tộc.
Có thể khẳng định truyện ngắn Vợ Nhặt là một thành công của Kim Lân. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông, đồng thời là đỉnh cao của truyện ngắn Việt Nam hiện đại. Người đọc sẽ mãi nhớ về một “Vợ nhặt” với cốt truyện độc đáo.
4. Bài mẫu số 3 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt:
Khi nói đến truyện ngắn tự sự, người ta thường coi ba yếu tố sau là cơ bản nhất: tính chất truyện, nhân vật và cách kể. Có nhiều truyện ngắn, tính sáng tạo tình huống đóng vai trò chủ đạo. Đặt trong chất liệu ấy, nhân vật bộc lộ sâu sắc tâm lý, tính cách. Ý tưởng của truyện cổ tích cũng được thể hiện một cách táo bạo và xung quanh tình yêu ấy, những chi tiết cũng trở nên thú vị. Truyện Vợ Nhặt của Kim Lân là một trong số những tác phẩm như vậy.
Chuyện tình của anh vợ tội nghiệp được thể hiện qua nhan đề truyện Một anh nông dân “nhặt” vợ. Nhưng bánh bao hấp dẫn anh ta có gì: nghèo, xấu và cư dân. Thế nên mới nói được vài câu thì vợ đã hùa theo về luôn. Trước hết, sức hấp dẫn của việc phá vỡ câu chuyện nằm ở đó. Như một nghịch lý, khiến tất cả mọi người trong xóm trọ, bà cụ Tứ, mẹ Tràng và cả chính Tràng, người “nhặt” được vợ, đều ngạc nhiên.
“…người trong xóm lạ lắm: Họ còn đứng ở ngưỡng cửa nhìn ra nói chuyện…” Khi biết Tràng đã có vợ, họ càng ngạc nhiên hơn. Mọi người đang “rung rinh”. Mọi người lo lắng cho Tràng ôi chao! Bây giờ đến miếng ăn cho mình còn không lo nổi, lại con đèo bòng. Không biết chúng nó có nuôi nhau mà sống qua hết này nọ không?” Bà cụ Tứ hiểu hoàn cảnh của con trai mình hơn ai hết nên càng khó tin rằng Tràng đã có vợ với tôi bà lão cứ thắc mắc: “Thế quái nào mà có đàn bà trong đó? Tại sao lại chào với u? Ai vậy?” Bà cụ Tứ cũng không hiểu nổi. Gia cảnh nghèo như nhà bà, ai lại muốn lấy vợ gả chồng. Vả lại, ông trời lao tâm khổ tứ không lo nổi, còn ghen thì lấy sao được. Đến bản thân Tràng cũng phải ngạc nhiên, nhìn vợ ngồi giữa nhà, anh “ngỡ rằng không phải vậy”.
Đó là một thực tế kỳ lạ. Nhưng khi tôi tìm ra nó, tôi không thấy có gì đáng ngạc nhiên. Lý do thật dễ hiểu, nhưng cũng thật đáng buồn, thật tội nghiệp! Điều này, cụ Tứ phải gần như cả đời làm bạn với cái nghèo mới thực sự hiểu được. Bà cụ đã hiểu, lòng người mẹ nghèo cũng hiểu ra biết bao cơ cực, vừa xót xa, vừa thương xót cho số phận con mình. Ôi chao, người ta dựng vợ gả chồng cho con cái khi có nhà, có cửa mong con cái được hạnh phúc sau này. Còn con mình thì… Trong mắt bà lão hai hàng nước mắt tuôn rơi… Biết đâu hai đứa con của bà có thể cùng nhau vượt qua cơn đói và sống hạn phúc sau này này?”
Lòng bà cụ thực sự là một mớ hỗn độn: Mừng và lo, mừng và mừng. Mừng là dù sao con trai cũng có vợ, thứ mà mẹ nó dễ không lo được cho con: ừ, con cái cũng có duyên với nhau cả đời, u cũng sướng. Nhưng ngậm ngùi, tủi hổ vì “bước đường gian nan đói khổ này, mới cõng được con, Mà con mới có vợ…”
Vì vậy, các chi tiết đã được tiết lộ sâu sắc. Tâm trạng, tính cách nhân vật bà cụ Tứ đã từng trải nhiều nên tâm lý phức tạp hơn cả. Và Trang bớt lo, vui nhiều hơn. Lúc đầu anh ấy cũng “lựa chọn”, nhưng chơi rồi cũng mặc kệ!”. Trên đường đưa vợ về nhà, anh thấy mọi người tò mò nhìn mình “anh thích làm gì thì làm, mặt anh cứ vươn lên kiêu hãnh. Hạnh phúc là nhớ nhung, đến nỗi lòng anh không hiểu sao vợ buồn, mẹ anh khóc: “Chán lắm, tự nhiên ngồi khóc khắp nơi là sao?”.
Bất ngờ “rước” được vợ, niềm hạnh phúc đến với Tràng quá lớn và quá bất ngờ. Cho đến sáng hôm sau, chàng vẫn cảm thấy “trong người lơ mơ như người vừa ngất đi trong mơ”. Và cùng với niềm vui, ý thức bổn phận, trách nhiệm với tổ ấm của mình, còn có sự ra đời. Anh thấy mình gắn bó yêu thương với mọi người, với ngôi nhà, với sân vườn của mình một cách lạ lùng. “Một nguồn vui và phấn khởi tràn ngập lòng tôi. Bây giờ là lúc để bắt đầu trở thành một con người.”
Buồn nhất là tâm trạng của người vợ Tràng “nhặt”. Kết hôn là điều thiêng liêng chính là để giao phó cả cuộc đời mình cho người đàn ông mình yêu. Vì thế, cô không biết Tràng là ai, tốt xấu ra sao. Chỉ cần một câu hát bông đùa và vài bát bánh đúc là theo ngay, cơn đói đã đưa người phụ nữ đến chỗ còn biết xấu hổ là gì, mất hết tự trọng, coi mình không hơn không kém như một đồ vật bị bỏ đi, người ta có thể “nhặt” ở đầu đường, trong góc chợ… Tác giả “Vợ Nhặt” đã sáng tạo nên một truyện hay độc đáo. Một tình huống vừa rất thực, vừa mang nhiều ý nghĩa tượng trưng sâu sắc.
Lên án tội ác của đế quốc Nhật, Pháp đã gây ra cho nhân dân ta nạn đói khủng khiếp Mùa xuân năm 1945 là chủ đề của hàng loạt tác phẩm thơ sau Cách mạng tháng Tám 1945 (Thơ Văn Cao, truyện ngăn, truyện ngăn của Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa), tiểu thuyết của Nguyên Hồng, Tô Hoài, Nguyễn Đình Thi. Dứt khoát mãi, lớp trẻ hôm nay không hình dung được giá người thời đó rẻ mạt như thế nào. Điều đó không bằng loài vật. Vợ nhặt của Kim Lân đã phơi bày trần trụi tội ác của giặc, đẩy nhân dân vào tình cảnh khốn cùng. Chỉ có mấy cái bánh đúc mà làm vợ chắc sướng lắm, thân phận như thế còn hơn rác. Thực dân phát xít đã làm cho nhân dân ta bao nhiêu khổ cực. Lời kết của bài Vợ Nhặt ngắn gọn và sâu sắc biết bao!
Nhưng chủ đề Vợ Nhặt không chỉ cũ như vậy. Câu chuyện tình yêu đã đặt nhân vật bên cạnh nanh vuốt của tử thần. Một không khí chết chóc bỗng len lỏi vào tác phẩm với mùi khói, mùi hôi thối của những đống dấm trong căn nhà có người chết và tiếng thở dài buồn bã bên ngoài hàng xóm lúc còn thơ ấu… Nhưng qua khí sắc. Các nhân vật, đặc biệt là Tràng và bà Cụ Tứ, thấy được người lao động tin yêu vào cuộc sống, còn hy vọng vào tương lai, cũng khao khát một mái ấm gia đình để yêu thương nhau sẻ chia vui buồn, để có số phận tốt đẹp hơn. với nhau cũng như có trách nhiệm với cuộc đời…
Đó là bản chất lạc quan của người dân lao động. Một sự lạc quan có cơ sở – “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”. – Vẫn có sự ngoan cố ở những con người luôn sống hết mình trong lao động và đấu tranh sinh tồn. Với niềm tin lạc quan của mình, cuối cùng ông đã gặp được ánh sáng của cách mạng với lá cờ Việt Minh phấp phới báo hiệu cuộc đổi đời vĩ đại của dân tộc sắp đến.
5. Bài mẫu số 4 phân tích tình huống truyện Vợ nhặt:
Trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Kim Lân trở thành một gương mặt độc đáo, thể hiện một quy luật thú vị: Bố cục nghệ thuật “quý hồ tinh bất quý hồ đa”. Kim Lân viết không nhiều, trong 50 năm hoạt động nghệ thuật ông chỉ có hai tập truyện ngắn nhưng mỗi tác phẩm của ông luôn để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc. Trong đó “Vợ nhặt” là tác phẩm tiêu biểu nhất, gặp gỡ, kết tinh tài năng nghệ thuật của Kim Lân. Truyện ngắn này thu hút người đọc ngay từ tình huống truyện độc đáo.
Truyện ngắn Vợ nhặt được nhiều người gọi là kiệt tác, là cây bút thần kì. Vợ nhặt là tiền thân và truyện Xóm ngụ cư được viết ngay sau Cách mạng tháng Tám. Những người Việt Nam đã sống qua năm 1945 khó có thể quên được nạn đói khủng khiếp đã cướp đi sinh mạng của hai triệu đồng bào. Nếu Cách mạng Tháng Tám là một cơn bão lịch sử vĩ đại thì trước cơn bão ấy, dân tộc ta phải chịu đói khát cùng cực. Đó chính là khung cảnh hiện thực của truyện ngắn Vợ Nhặt. Xuất phát từ hiện thực đó, Kim Lân đã tạo ra một tình huống truyện độc đáo để nói lên niềm vui, hạnh phúc và khát vọng sống của những người lao động nghèo khổ.
Tình huống truyện là một sự kiện đặc biệt của cuộc đời được nhà văn sáng tạo một cách lạ lùng. Như Nguyễn Minh Châu đã nói “tình huống truyện là một lát cắt, một mặt cắt ngang của cuộc đời nhưng qua đó ta hiểu được cuộc sống trăm năm của loài thảo mộc”. Có thể nói ngoại cảnh chính là môi trường để nhân vật bộc lộ tính cách. Trong truyện Vợ Nhặt, đó là tình huống người vợ bị “nhặt”.
Truyện ngắn thông thường được xây dựng trên một tình huống độc đáo. Chính từ đây đã thể hiện rõ nét tính cách, số phận của nhân vật và chủ đề của tác phẩm. Cá tính độc đáo, tình huống truyện mà Kim Lân tạo ra ngay từ nhan đề tác phẩm Vợ nhặt. Xưa nay, cưới hỏi luôn được coi là sự kiện trọng đại của một đời người. Nhưng Tràng bỗng nhặt vợ lên như nhặt một vật gì đánh rơi trên đường. Một người đàn ông nghèo, xấu xí, một người dân, được một người phụ nữ tự nguyện theo làm vợ. Lạ lùng hơn nữa, Tràng dám đưa vợ về giữa lúc đói kém, khi cái chết vì đói đang rình rập, đe dọa. Kim Lân mở đầu truyện bằng một cuộc trở về lạ lùng.
So với những lần trước, lần trở lại này không khác biệt về thời gian, về cung đường quanh co, nhưng lần này Trang mang một tâm trạng khác. Niềm vui trong lòng người đàn ông nghèo thể hiện trên khuôn mặt và ánh mắt: “Mặt anh có vẻ phấn chấn lạ thường”. Anh mỉm cười với người vợ và đôi mắt lấp lánh. Giây phút chống cự Tràng quên hết đau thương trước mắt mà chỉ thấy thương người đàn bà đi bên cạnh mình. Phải hiểu và trân trọng niềm hạnh phúc của con người tội nghiệp thì mới diễn tả được cảm giác này.
Sự xuất hiện của người phụ nữ ấy đã khuấy động bầu không khí đen tối của xóm nghèo. Lũ trẻ chạy đến trêu Tràng, còn người lớn thì hào hứng bàn tán. Lúc đầu, họ tưởng đó là người thân của Tràng, nhưng rồi ánh mắt ngượng ngùng của người phụ nữ đã cho mọi người biết sự thật. Một lúc sau bỗng có tiếng cười, “Hay là vợ thằng Tràng?”. Ừ thì đúng là vợ Tràng thật rồi, nhìn e thẹn quá.
Kim Lân đã khéo léo quan sát một tình huống thú vị và miêu tả chính xác nó bằng lời của một người vùng quê. Sự xuất hiện của người phụ nữ lạ càng khiến cả xóm thêm bất ngờ và thú vị, chính Tràng cũng bất ngờ. Người trong cuộc đưa vợ về rất bất ngờ vì anh đã có vợ. Khi đưa người đàn bà vào nhà, đứng giữa nhà nhìn mình, Tràng cứ đi đi lại lại trong nhà, nghĩ vẩn vơ. “Vậy là anh ấy có vợ rồi à? Thực ra, anh không ngờ, mình chỉ “mất 4 bát bánh đúc” mà đã thành vợ thành chồng. Từ lúc cha sinh ra mẹ ruột cho đến giờ, Tràng chưa có lấy một cô con gái nào để mắt đến.
Cả sáng hôm sau, vợ Tràng vẫn còn ngỡ ngàng. Sáng hôm đó, Trang thức dậy muộn hơn, cảm giác như mình vừa bước ra từ một giấc mơ. “Việc anh ấy có vợ cho đến ngày nay vẫn còn gây ngạc nhiên như không.” Người đàn ông tội nghiệp chưa kịp thích nghi với niềm vui mới, trước bước ngoặt cuộc đời đột ngột.
Tại sao lại có chuyện lạ, có chuyện bất ngờ như vậy? Như để giải đáp cho người đọc, Kim Lân đã hai lần ngược dòng thời gian để kể lại diễn biến hai người trở thành vợ chồng. Ở đây, ta chứng kiến nghệ thuật đảo ngược trình tự thời gian của Kim Lân. Chuyện Tràng lấy vợ thật buồn cười, chỉ hai lần tình cờ gặp nhau, chỉ vài câu nửa đùa nửa thật mà người đàn bà ấy đã bám riết lấy Tràng, sẵn sàng trao cả mạng sống cho Tràng. Nhưng nghĩ lại, thị còn biết bấu víu vào đâu. Dân gian có câu “chết đuối vớ được cọc” chính là tình cảnh của người phụ nữ này. Đằng sau tiếng cười ấy, người đọc nhận ra một sự thật đáng buồn, đó là cái đói và cái đói khủng khiếp chính là yếu tố duy nhất đẩy hai con người ấy xích lại gần nhau để rồi họ trở thành vợ chồng.
Điều này không có màu sắc của tình yêu hay tình cảm, chỉ hai lần gặp gỡ mà người phụ nữ thay đổi hoàn toàn. Lần trước thị chạy lại đẩy xe Tràng, còn liếc nhìn Tràng cười làm Tràng vui lắm. Nhưng lần sau, thấy Tràng ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh, cô từ đâu chạy đến và hờn dỗi trách móc. Cái đói đã làm cho thị tiều tụy, hốc hác, khiến Tràng không thể nhận ra “hôm nay người tơi tả, quần áo tả tơi như tổ đỉa, người gầy hẳn đi. Trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn lại hai con mắt. Khi được mời ăn, đôi mắt trũng sâu lập tức sáng lên, Thị sà xuống ăn hết bốn bát bánh, không nói.
Đúng là cái đói làm người ta mất hết biểu cảm, quên hết cảm giác. Chính từ đó ta nhận thấy một giá trị hiện thực to lớn của truyện ngắn Vợ nhặt. Câu chuyện của người phụ nữ này làm sống lại thảm cảnh nạn đói năm 1945 mà dân tộc ta phải gánh chịu. Cũng từ đây ta hiểu vì sao Kim Lân không đặt tên riêng cho người vợ được chọn của Tràng mà lại dùng đại từ chung là “thị”. Chúng tôi không cần một cái tên riêng cho danh tính của người phụ nữ này vì có rất nhiều phụ nữ như thị vào thời điểm đó. Không biết bao nhiêu người vì đói khát sinh tồn cũng phải hành xử như cô. Trong bi kịch ấy, cô chẳng khác gì một cọng rơm, một thứ rác rưởi mà người ta có thể nhặt được ở cuối đường.
Đó phải chăng là ý nghĩa tiêu biểu, điển hình của nhân vật? Dù sao chuyện nên vợ nên chồng cũng đã thành hiện thực. Trở về với hiện tại, độc giả chúng ta lại đứng trước một kỳ vọng mới “liệu cụ Tứ có chấp nhận cô vợ nhặt của Tràng?”. Cuộc sống của gia đình này sẽ ra sao, mọi người sẽ cư xử với nhau như thế nào. Kim Lân đã đặt các nhân vật của mình vào những tình huống thử thách để khám phá vẻ đẹp của hoàn cảnh, của khát vọng hạnh phúc. Thậm chí mẹ con Tràng còn lo cái ăn, lo chết đói. Vậy mà họ vẫn sẵn sàng bảo vệ và chăm sóc người phụ nữ đó.
Bà cụ Tứ vui vẻ nhận con dâu, người an ủi, động viên vợ chồng Tràng cùng nhau cố gắng làm ăn. Tối hôm đó ngọn đèn dầu được thắp sáng trong căn nhà tối tăm lạnh lẽo đã lâu. Ánh sáng của ngọn đèn hay ánh sáng của niềm vui đem đến cho người nghèo. Từ tình huống này, Kim Lân đã khẳng định những con người ấy không hướng đến cái chết mà chỉ hướng đến sự sống, dù trong hoàn cảnh đói nghèo khắc nghiệt nhưng người dân lao động vẫn biết vui với những việc mình đang làm, vâng, vẫn lấp lánh niềm tin vào tương lai.
Câu chuyện cổ tích giữa đời thật đó khép lại với hình ảnh Tràng ngồi nghĩ về Việt Minh. Trong tâm trí Tràng vẫn hiện lên hình ảnh những con người đói khổ và lá cờ đỏ phấp phới bay phấp phới. Vì vậy Kim Lân đã mở ra trước mắt nhân vật của mình một dự cảm về sự đấu tranh, về sự đổi đời. Không biết bà cụ Tứ, không biết vợ chồng Tràng có vượt qua được cái đói mà sống cho đến ngày cách mạng thành công hay không? Dẫu sao, khép lại trang cuối cùng của truyện ngắn Vợ nhặt người đọc vẫn hi vọng, vẫn tin rằng mình sẽ là một trong những người góp phần làm nên cơn bão táp của Cách mạng tháng Tám.
Là điểm nhất của truyện ngắn, tình huống truyện trong Vợ nhặt có vai trò rất quan trọng giúp nhà văn xây dựng chân dung nhân vật sắc nét, đồng thời thể hiện tự nhiên, sâu sắc tư tưởng nghệ thuật của nhà văn. Đến với truyện ngắn Vợ Nhặt, ta bắt gặp cái nhìn đằm thắm của người lao động, một nhà văn tài hoa khi dựng tình huống, khi tả cảnh, tả người, Kim Lân cứ dẫn người đọc đi từ bất ngờ này đến bất ngờ khác.
Vợ nhặt có nhiều tình huống được biến đổi linh hoạt nhờ tài miên tả diễn biến nghệ thuật của nhà văn. Vì vậy, đây là một tác phẩm đa dạng, mang nhiều màu sắc thẩm mỹ. Ở đây có bóng tối nghiệt ngã khác thường mà cũng tươi sáng lấp lánh niềm lạc quan.