Phải làm gì khi không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ?

Thực trạng không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ? Phải làm gì khi không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ?

Hiện nay, nhiều cá nhân, tổ chức do thiếu thốn về kinh tế mà nhiều trường hợp  bị đánh cắp thông tin, sau đó các cá nhân, tổ chức này móc nối với nhau lấy thông tin như Căn cước công dân, chứng minh dân dân của họ ra vay tiền qua các ứng dụng trên điện thoại thông minh với số tiền không hề nhỏ. Cá nhân bị đánh cắp thông tin hàng ngày đều nhận được các cuộc gọi nặc danh khủng bố, làm phiền đòi nợ, thậm chí những đối tượng này còn gọi điện đến cho bạn bè, người thân của cá nhân bị đánh cắp thông tin. Vậy, phải làm gì khi không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ?

Cơ sở pháp lý: 

– Bộ luật Tố tụng Hình sự năm 2015;

– Bộ luật Dân sự năm 2015; 

– Nghị định 15/2020/NĐ-CP Quy định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử;

– Thông tư 28/2020/TT-BCA Quy định trình tự, thủ tục tiếp nhận, phân loại, xử lý, giải quyết tố giác, tin báo về tội phạm, kiến nghị khởi tố của lực lượng Công an nhân dân;

LVN Group tư vấn pháp luật trực tuyến qua tổng đài: 1900.0191

1. Thực trạng không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ: 

Hiện nay thực trạng không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ ngày càng phổ biến, theo thống kê Cục Cạnh tranh và Bảo vệ người tiêu dùng Bộ Công Thương đã tiếp nhận nhiều đơn phản ánh, khiếu nại của người dân về vấn đề này, hầu như các trường hợp đều bị khủng bố bằng hình thức nhắn tin, gọi điện làm phiền đòi nợ với tần suất nhiều cuộc gọi, tin nhắn trong ngày, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến tinh thần, danh dự, nhân phẩm của cá nhân bị khủng bố, làm phiền đòi nợ. 

Cùng với sự phát triển kinh tế – quốc tế, các công ty tài chính được thành lập, có hình thức vay đơn giản, nhanh chóng. Theo quy định pháp luật thì thành lập công ty tài chính phải được Cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp phép thành lập. Tuy nhiên, thực tiễn nhiều cá nhân, tổ chức đứng ra cho tài chính thông qua ứng dụng trên điện thoại, rất khó quản lý được. Khách hàng là cá nhân, tổ chức đang có nhu cầu vay tiền lớn không muốn thủ tục phức tạp thì cần cung cấp thông tin cá nhân như Căn cước công dân hoặc chứng minh nhân dân, số điện thoại của cá nhân, tổ chức vay và danh bạ điện thoại của người thân là có thể duyệt để vay tiền. Do đó, khâu thẩm định, xác thực thông tin người vay không thực sự hiệu quả dẫn đến nhiều trường hợp mạo danh người khác vay tiền. 

Thực tế, không vay tiền vẫn bị khủng bố có thể do những nguyên nhân như:

– Cá nhân, tổ chức cho hoặc bị bạn bè, người thân đánh cắp thông tin cá nhân như căn cước công dân hoặc chứng minh nhân dân, số điện thoại,… để vay tiền. 

– Các đối tượng lừa đảo có thông tin của quý bạn từ điền thông tin trúng thưởng để nhận quà thông qua website mua sắm, bán hàng hoặc trên mạng xã hội như facebook, tiktok,…, đăng ký vay vốn trên mạng xã hội với đối tượng nặc danh, thông qua các app vay tiền và đặc biệt việc đánh rơi ví, giấy tờ cá nhân,… để có thể giả danh chủ nợ, công ty tài chính để khủng bố, làm phiền,…

Căn cứ theo quy định tại Khoản 1 Điều 466 Bộ luật Dân sự năm 2015, quy định: 

– Trường tài sản là tiền thì bên vay tiền có trách nghiệm phải trả đủ tiền khi đến hạn; trường hợp tài sản là vật thì phải trả vật cùng loại đúng số lượng, chất lượng, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Trường hợp bên vay không thể trả vật thì có thể trả bằng tiền theo trị giá của vật đã vay tại địa điểm và thời điểm trả nợ, nếu được bên cho vay đồng ý.

– Nơi cư trú hoặc nơi đặt trụ sở của bên cho vay là địa điểm trả nợ, ngoại trừ trường hợp có thỏa thuận khác.

– Trường hợp vay không có lãi mà khi đến hạn bên vay không trả nợ hoặc trả không đầy đủ thì bên cho vay có quyền yêu cầu trả tiền lãi với mức lãi suất nêu dưới đây, trường hợp số tiền chậm trả tương ứng với thời gian chậm trả, trừ trường hợp có thỏa thuận khác hoặc luật có quy định khác:

+ Trường hợp các bên có thỏa thuận về việc trả lãi, nhưng không xác định rõ lãi suất và có tranh chấp về lãi suất thì lãi suất được xác định bằng 50% mức lãi suất giới hạn theo quy định tại Khoản 1 Điều 468 Bộ luật Dân sự năm 2015 tại thời điểm trả nợ.

Do vậy, từ những phân tích nêu trên, trường hợp không vay tiền mà bị khủng bố, làm phiền đòi nợ thì không có nghĩa vụ phải trả nợ.

2. Phải làm gì khi không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ?

Căn cứ theo quy định tại Khoản 3 Điều 103 Nghị định 15/2020/NĐ-CP quy định vi phạm quy định về lưu trữ, cho thuê, truyền đưa, cung cấp, truy nhập, thu thập, xử lý, trao đổi và sử dụng thông tin như sau: 

Đối với các trường hợp sau đây, phạt tiền từ 10.000.000 đồng đến 20.000.000 đồng: 

– Sử dụng, truy nhập, tiết lộ, làm gián đoạn, sửa đổi, phá hoại trái phép thông tin, hệ thống thông tin;

– Về việc xác định danh sách chủ sở hữu thuê chỗ lưu trữ thông tin số không thực hiện yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền về;

– Không thực hiện các biện pháp cần thiết để loại bỏ thông tin trái pháp luật theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền khi truyền đưa hoặc cho thuê chỗ lưu trữ thông tin số hoặc không thực hiện các biện pháp cần thiết để ngăn chặn 

– Trừ các trường hợp cung cấp theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền không bảo đảm bí mật thông tin của tổ chức, cá nhân thuê chỗ lưu trữ thông tin số;

– Không thực hiện các biện pháp phá hủy khi thu thập, xử lý và sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên môi trường mạng hoặc các biện pháp quản lý, kỹ thuật cần thiết để bảo đảm thông tin cá nhân không bị mất, đánh cắp, tiết lộ, thay đổi;

– Thu thập, xử lý và sử dụng thông tin của tổ chức, cá nhân khác mà sai mục đích theo quy định của pháp luật hoặc không được sự đồng ý;

– Lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của tổ chức, danh dự, nhân phẩm, uy tín hoặc cung cấp, trao đổi, truyền đưa của người khác;

– Cung cấp, trao đổi, truyền đưa hoặc lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm quảng cáo, tuyên truyền hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục bị cấm;

– Ngăn chặn trái pháp luật việc truyền tải thông tin trên mạng, gây nguy hại, xóa, thay đổi, can thiệp, truy nhập, sao chép và làm sai lệch thông tin trên mạng;

– Không hợp tác, phối hợp điều tra các hành vi vi phạm pháp luật xảy ra trong quá trình lưu trữ, truyền đưa thông tin số của tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

– Không tiến hành giám sát, theo dõi thông tin số của tổ chức, cá nhân theo yêu cầu của cơ quan nhà nước có thẩm quyền;

– Giả mạo cá nhân, tổ chức sau đó phát tán  thông tin sai sự thật xâm hại, thông tin giả mạo đến quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân;

– Tiết lộ thông tin thuộc danh mục bí mật nhà nước, đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình mà chưa đến mức truy cứu trách nhiệm hình sự;

– Chiếm đoạt văn bản khác hoặc điện báo, telex, fax, thư của người khác được truyền đưa trên mạng dưới bất kỳ hình thức nào;

– Ghi âm, nghe cuộc đàm thoại trái pháp luật;

– Thu giữ điện báo, điện tín, thư trái pháp luật.

– Cố ý lấy các thông tin, nội dung của văn bản khác hoặc thư, điện báo, telex, fax của người khác được truyền đưa trên mạng;

Như vậy, khi sử dụng điện thoại để đe dọa, quấy rối, xuyên tạc, vu khống, xúc phạm uy tín của cá nhân, tổ chức thì các cá nhân, tổ chức này có thể bị xử phạt từ 10.000.000 đồng đến mức cao nhất là 20.000.000 đồng. 

Do vậy, khi có hành vi không vay tiền vẫn bị khủng bố, làm phiền đòi nợ thì trước tiên các cá nhân, tổ chức cần thực hiện các biện pháp sau: 

Một là, khi nghe điện thoại trước tiên các cá nhân, tổ chức cần khai thác thông tin từ đầu dây gọi điện khủng bố như các thông tin về app vay tiền, yêu cầu cung cấp thông tin, chứng từ, giấy tờ văn bản, các khoản vay trong hợp đồng vay tiền,…

Hai là, cá nhân, tổ chức bị khủng bố, làm phiền đòi nợ thì cần phải giải thích cho người gọi điện trong trường hợp không vay tiền, không quen với người vay tiền và không biết về các khoản nợ từ các app cho vay tiền online một cách rõ ràng, rành mạch, kiên quyết. 

Cá nhân, tổ chức cần bật ghi âm cuộc gọi hoặc lưu lại tin nhắn nhằm có thể làm bằng chứng cung cấp cho cơ quan chức năng về vấn để bị khủng bố, đòi tiền. Đồng thời, các cá nhân, tổ chức có thể chặn các tin nhắn, cuộc gọi. 

Tuy nhiên, cần lưu ý rằng khi nói chuyện với bên gọi điện khủng bố vay tiền thì tuyệt đối không cung cấp các thông tin của mình: căn cước công dân/chứng minh nhân dân, đồng nghiệp, bạn bè,… cho các đối tượng gọi điện đòi nợ. 

Trường hợp bạn đã sử dụng các biện pháp nêu trên mà bên gọi điện đòi nợ, khủng bố vay tiền vẫn còn tình trạng làm phiền kéo dài thì các cá nhân, tổ chức hoàn toàn có thể làm đơn tố cáo về tội phạm trình báo cơ quan công an xã/phường. Căn cứ theo quy định tại khoản 1 Điều 1 Bộ luật Tố tụng hình sự năm 2015 và khoản 1 Điều 7 Thông tư 28/2020/TT-BCA công an cấp xã có trách nhiệm tiếp nhận tin báo, tố giác về tội phạm. Công an xã sẽ có tiến hành kiểm tra, xác minh sơ bộ, tường hợp có dấu hiệu vi phạm thì công an sẽ tiến hành chuyển ngay tin báo về tội phạm cho cơ quan điều tra có thẩm quyền kèm theo các tài liệu, đồ vật liên quan.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com