Phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ hay nhất

Nguyễn Công Trứ là một đại diện cho cuộc sống thanh bình, là cái tôi tự tin trước cuộc đời đầy bão tố, ông vẫn luôn giữ vững cho mình một trạng thái bình tâm, hãy cùng tìm hiểu rõ hơn qua bài phân tích bài Bài ca ngất ngưởng.

1. Dàn ý phân tích bài Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ:

1.1. Dàn ý chi tiết phân tích bài Bài ca ngất ngưởng:

Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm

Thân bài:

* Cảm hứng chủ đạo của bài thơ – “bài ca ngất ngưởng”

– Xuất hiện 4 lần trong toàn bộ tác phẩm

– Từ  láy giàu ý nghĩa:

+ Nghĩa đen: diễn tả độ cao ở trạng thái không ổn định, sắp đổ nhưng không đổ.

+ Trong bài thơ là lối sống, thái độ sống của Nguyễn Công Trứ.

* “Ngất ngưởng” khi làm quan

– Câu thơ mở đầu bằng chữ Hán khẳng định mạnh mẽ lí tưởng nam nhi mà tác giả tự nguyện đi theo, đây là lí tưởng chung của những người đi theo con đường nho học: trong trời đất, không gì là không thể khi bạn muốn làm công việc của bạn.

– Bằng cách sử dụng hàng loạt từ Hán Việt và biện pháp liệt kê, Nguyễn Công Trứ đã khéo léo điểm lại một loạt các chức quan, tước vị mà mình đã đảm nhiệm, cho thấy ông là một bậc văn võ song toàn.

→ Sự phô trương tài và danh của Nguyễn Công Trứ không phải là tự phụ, khoe khoang mà tài năng và sự nghiệp của ông là cái vỏ bọc bên ngoài để ẩn sâu bên trong. Bên trong là cái tôi ý thức rõ tài năng và vị trí của mình

* “Ngất ngưởng” khi về hưu

– Lối sống đa dạng, khác biệt và có phần mâu thuẫn:

+ Con bò vàng được nhà thơ “tô điểm” bằng bộ đạc ngựa.

+ Cảnh chùa còn đưa một cô thôn nữ xinh đẹp đến chào.

– Có quan niệm sống thể hiện một cách rõ ràng, không quan tâm đến được hay là mất, khen hay là chê: Với ông, giữa được và mất, khen và chê không có cài nào hơn cái nào.

– Ông chọn cho mình một lối sống tự do, được tự do làm những gì mình muốn: Biết quý trọng hiện tại, hiện tại và biết thưởng thức những thú vui của cuộc đời như ca hát, uống rượu. Đặc biệt là tình yêu.

→ Thái độ và lối sống của Nguyễn Công Trứ vượt ra khỏi giới hạn của cuộc đời nhưng ông luôn là người đầy tớ trung thành.

Bài học rút ra cho bản thân từ bài thơ Bài ca ngất ngưởng:

– Cần nhận thức rõ vai trò, vị trí của mình trong cuộc sống và có ý thức rõ ràng về tài năng của bản thân

– Có quan niệm sống đúng đắn, lí tưởng sống đúng đắn, phải biết thoát ra khỏi cuộc sống tù túng, tẻ nhạt để sống có ý nghĩa.

Không sống tiểu nhân, ích kỷ, chỉ biết đến mình được mất, khen chê mà quên đi những người chung quanh.

Kết bài: 

Nêu cảm nghĩ của bạn về nội dung của tác phẩm

1.2. Dàn ý cụ thể phân tích bài Bài ca ngất ngưởng:

Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm

Thân bài:

* Nguồn cảm hứng chính

– “ngất ngưởng”: địa vị cao, không vững, nghiêng ngả.

=> Tư thế, cách sống phóng túng, vượt lên trên sự trần tục của con người.

=> Lối sống nhất quán của Nguyễn Công Trứ, tác giả đã cảm nhận rất rõ về tài năng và bản lĩnh của ông kể cả khi làm quan, ra vào triều đình và khi về hưu.

Quan điểm sống ngất ngưởng trên đường công danh (6 câu đầu)

– “Vũ trụ bên trong không có bổn phận”: thái độ tự tin khẳng định mọi việc trong trời đất đều do tác giả đảm nhiệm -> Tuyên ngôn về ý chí làm trai của nhà thơ.

– “Ông Hi Văn… trong lồng”: Coi việc nhập thế là một công việc ràng buộc nhưng cũng là điều kiện để tài năng bộc lộ.

– Liệt kê những việc tôi đã làm được ở vị trí quan chức và tài năng của tôi:

+ Tài năng: giỏi văn (khi đỗ thủ khoa), tài dùng binh (tài)

-> Tài năng lỗi lạc: văn võ song toàn

+ Thể hiện chức vụ, địa vị xã hội: Tham tán, Tổng đốc, Tổng đốc (bình định Trấn Tây), Phủ doãn Thừa Thiên

-> Tự hào mình là người tài năng xuất chúng, có công danh hiển hách về văn, tài.

=> Sáu câu đầu là lời của nhà thơ khi làm quan, khẳng định tài năng và lí tưởng cao ngạo, phóng khoáng của một người có năng lực xuất chúng.

Quan điểm sống trong cách sống, cách nghĩ (10 câu tiếp theo)

– Cách sống theo ý chí, sở thích cá nhân:

+ Cưỡi bò mặc áo ngựa.

+ Đi chùa được tiên đi theo.

=> Sở thích quái gở, khác thường, thậm chí có phần cẩu thả và lập dị

+ Bụt cũng buồn cười: thể hiện hành động của tác giả là khác thường, ngược đời, trái với quan điểm của các nhà Nho phong kiến.

=> Cá tính nghệ sĩ muốn sống theo cách của mình.

– Quan niệm sống:

+ “Thắng thua… gió bay”: Tự tin sánh mình với “Thái thượng”, tức là sống tự do tự tại, không màng đến sự khen chê của người đời.

+ “Khi hát…khi tùng”: tạo cảm giác cuộc sống phong phú, thú vị, từ “khi” được lặp đi lặp lại tạo cảm giác vui sướng triền miên.

+ “Không… tục”: không Phật, không tiên, không vướng bận trần gian, sống giữa trần gian -> sống không giống ai, sống trong cực lạc.

=> Quan niệm sống giản dị đời thường mang đậm dấu ấn riêng của tác giả.

Khẳng định độ “ngất ngưởng” bất khả chiến bại (3 câu cuối)

– “Chẳng trái với Nhạc… Nghĩa vua tôi cho trọn đạo sơ chung”: Dùng kinh điển, so sánh mình với những danh nhân có sự nghiệp hiển hách như Trại Tuấn, Hàn Ký, Phù Bát…

=> Khẳng định bản lĩnh, khẳng định tài năng sánh ngang với danh tướng. Tuyên bố là một đầy tớ trung thành.

– “Ai ngất ngưởng trong triều đình như ta”: vừa hỏi vừa khẳng định ý kiến của viên trưởng quan về cách sống “ngất ngưởng”.

=> Tuyên ngôn khẳng định nhân cách và khát vọng vượt lên trên những quan điểm đạo đức Nho giáo thông thường.

Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

2. Bài phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ hay nhất:

Nguyễn Công Trứ (1778 – 1858) là nhà thơ lớn của dân tộc ta nửa đầu thế kỉ XIX. Văn chương lỗi lạc, kinh thiên hạ, lưu danh sử sách. Có lúc sống cuộc đời của một học giả, có lúc cầm quân đánh trận, có lúc làm quân nhân, có lúc làm quan. Vinh quang đã có, thăng trầm đã trải qua nhưng ông vẫn khát khao tư cách, sòng phẳng với nợ tang tóc, sống vì một khát vọng phi thường:

“Đã mang tiếng ở trong trời đất,
Phải có danh gì với núi sông”.

Sự nghiệp văn chương của Nguyễn Công Trứ vô cùng rạng rỡ, thể hiện một cá tính sáng tạo vô cùng độc đáo được thể hiện hết sức đẹp đẽ qua bài phú Nôm “Hán Nho phong phú”, và hơn 60 bài thơ thất ngôn tứ tuyệt có tài hoa. “Bài ca ngất ngưởng” là một trong những bài ca tuyệt tác trong nền thơ ca nước nhà. Bài dân ca nhiều tầng này có hai khổ, tổng cộng 19 vần, trầm bổng, nhạc điệu du dương, lúc thong thả, lúc hào hùng, đọc rất thú vị. Ông cho biết đây là thể thơ dân tộc, có bố cục chặt chẽ, chất thơ và nhạc tính kết hợp rất hài hòa, hấp dẫn.

Nguyễn Công Trứ trở lại quân ngũ năm 1848, sau gần 30 năm làm quan với Chiêu Nguyên. Bài thơ “Bài ca ngất ngưởng” được ông viết sau khi về quê làm học sĩ. Đoạn thơ vang lên như một tự truyện về cuộc đời, qua đó ông Hi văn tự hào về tài năng, đức độ và công danh của mình, thể hiện một nhân cách, một lối sống tài tử, phóng khoáng ở đời.

“Xiên” có nghĩa là không vững chắc, ở nơi bấp bênh, dễ ngã, dễ ngã (Từ điển Tiếng Việt). Ở bài thơ này, nên hiểu “tư tưởng” khác người, khác cách sống và bất chấp mọi người. Và ngây ngất đã được Nguyễn Công Trứ nâng lên thành khúc ca, thành giai điệu tâm hồn với tất cả niềm hân hoan tự hào hiếm có.

Khổ thơ đầu cất lên một tiếng nói, một tuyên ngôn của một con người, một bậc tài hoa. Rất trang trọng và hào hùng: “Vũ trụ bên trong không hoạt động” – không có gì trong vũ trụ không phải là nhiệm vụ của chúng ta. Một cách nói phủ định để khẳng định vị thế của một nhà Nho chân chính. Nhưng không chỉ một lần? Khi đó ông đã viết: “Vũ trụ giai ngộ phân” (Vạn vật trong vũ trụ đều là nhiệm vụ của tôi ~-Nợ tang bồng; “Vũ trụ giai ngộ phận sự” (Vạn vật trong vũ trụ là bổn phận của tôi – Mang gánh nặng của vũ trụ) trung thành ) có tâm lý đó, vì “ông Hi Văn Tài Bộ đã vào lồng”. Hi Văn là tên hiệu của Nguyễn Công Trứ. “Tài Bội” là tài giỏi, nhiều tài lẻ. Có nhiều cách hiểu khác nhau trong câu thơ: “Vào chuồng là theo phép vua, vua ăn ở chật hẹp trái ngược với tài đánh trời” (Lê Trí Viễn). Người khác giải thích: Cái lồng là trời đất, là vũ trụ.” Nguyễn Công Trứ đã nhiều lần nói: “Có tiếng trong trời đất”, hay “Có công đứng giữa thiên hạ” thì dễ hiểu hơn, bởi chỉ có trong lồng vũ trụ mới có ý chí chiến đấu, như ông đã nói:

“Chí làm trai nam bắc tây đông,
Cho phí sức vẫy vùng trong bốn bể”.

Sau khi xưng danh, nhà thơ khẳng định tâm trạng, “tài hoa” và nam nhi mang tầm vóc vũ trụ.

Ông Hi Văn là người có thực tài. Học hành thi cử, ông dám thử thách thiên hạ: “Nợ chữ phải trả”. Năm 1819, Nguyễn Công Trứ đỗ thủ khoa trường Nghệ An. Làm quan đến chức Quân sự, giữ chức Tham tán; làm quan, là Tổng đốc Đông (Hải Dương và Quảng Yên). Nổi tiếng “Làm anh hùng đâu đấy tỏ” (“Chí anh hùng”). Đứng trên đỉnh cao danh vọng vì văn võ song toàn, vì “nam nhân thiên hạ”, cũng là lúc Hi Văn trở thành “nam nhân thiên hạ”, kẻ đứng trên cả thiên hạ. Câu thơ có ngắt hơi (3-3-4-3-3-2), lặp lại ba lần từ “khi” tạo nên âm điệu hào hùng, thể hiện chí khí phi thường, vô bờ bến:

“Khi Thủ khoa! khi Tham tán ! khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược ! đã nên tay ! ngất ngưởng”.

Bốn câu tiếp theo (khổ giữa), ý thơ mở rộng, tác giả tự hào, khẳng định mình là một con người, một học giả có tài kinh bang tế thế. Trong lúc loạn lạc, ông xông pha trận mạc, giữ trọng trách đứng trước ba quân cờ: “Bình Tây cờ đại tướng”. Trong thời bình, ông giúp nước giúp vua, giữ chức “Phủ doãn Thừa Thiên”. Đó là năm 1847, Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao danh vọng. Ông từng nói: “Làm tướng không vinh, làm thú binh không hổ”. Sau 30 năm làm quan, Nguyễn Công Trứ về quê học sĩ, năm ấy ông vừa tròn 70 tuổi (1848):

“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng”.

Trở về với cuộc sống đời thường, lão Thường Trù hành xử ngang ngược, như muốn giễu cợt cuộc đời bằng tất cả sự xuất thần của nó. Vị quan lớn ngày xưa là “xe ngựa” nay chỉ cưỡi một con bò vàng và mặc quần áo ngựa. Cả người và bò vàng đều ngây ngất. Như một lời thách đố “miệng thế”. Đến nay, dân gian vẫn cười và truyền lại bài thơ viết trên hào của ông Hi Văn năm xưa:

“Xuống ngựa, lên xe, nọ tưởng nhàn.
Lợm mùi giáng chức với thăng quan.
Điền viên dạo chiếc xe bò cái,
Sẵn tấm mo che miệng thế gian”.

Tám dòng tiếp theo của hai khổ thơ thừa nói lên một lối sống xuất thần. Xưa ông là một quan đại thần, một danh tướng – “tay kiếm thiếp” – nhưng nay ông sống hiền lành, giản dị “thế là từ bi”. Đi vãn cảnh chùa chiền, tham quan những danh lam thắng cảnh “Có núi có mây trắng”, chàng đưa về “đôi uyên ương”, nàng cung nữ xinh đẹp cùng “thần tiên”…

“Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bi.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì.
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng…”

Ông ấy đã sống hết mình và chơi hết mình. “Đạo Phật cũng nực cười, Chúa cũng ngất ngây” là một bài thơ độc đáo. Bản thân bài thơ đã gợi lên chút hóm hỉnh. Phật cười hay thế gian cười? Hay anh Hi Văn tự cười mình? Đã thoát khỏi vòng danh lợi, chuyện “được và mất” là chuyện thường tình ở đời, như chuyện “Thất mã tái ông”. Mọi người “khen và chê” nên bỏ qua, giống như gió đông (xuân) thổi. Có bản lĩnh, tự tin vào tài năng, đức độ của mình mà họ lại có thái độ ngang ngược, dám sống vượt lên trên tất cả mọi thứ trên đời. Bạn có biết rằng Nguyễn Công Trứ là một nhà Nho được đào tạo ở cửa Nho sân Trình, một vị quan lớn của nhà Nguyễn, mới thấy một phần tính cách của ông, một tính cách khác hẳn, rất phóng khoáng và khí chất và tài năng hiếm có của mình. Không phân biệt “được mất”, bỏ ngoài tai mọi lời khen chê, ông sống một cuộc sống bình yên, hồn nhiên, vô cùng thoải mái và vui tươi. Tuy ngây ngất nhưng trong trẻo, thanh cao. Đây là hai câu thơ tuyệt đẹp từ “Bài ca ngất ngưởng”:

“Khi ca / khi tửu / khi cắc / khi tùng /
Không Phật / không Tiên / không vướng tục”.

Nguyễn Công Trứ tự hào khẳng định mình là một trung thần, trọn vẹn “nghĩa vua tôi”. Ông viết trong bài “Nợ tang bồng”:

“Chí tang bồng hẹn với giang san,
Đường trung hiếu, chữ quân thân là gánh vác”.

Tài năng và danh tiếng mà Nguyễn Công Trứ để lại cho nước, cho dân không thua kém gì Nhiếp Tuấn, Nhạc Phi, Hàn Ký, Phù Bát – những bậc hiền tài thời Hán, Tống ở Trung Quốc. Hai so sánh gần xa, trong ngoài, Nam Bắc, tác giả kết thúc bài viết bằng giọng “thưa” trầm hùng, hào hùng: “Ai vào triều mà ngất ngưởng như tôi!”. Cái tôi phi thường của nhà thơ được phơi bày đến tột độ.

Tóm lại, đối với Nguyễn Công Trứ, cần phải có thực tài, thực danh, “đúng là vua tôi” thì mới trở thành “thiên hạ”, “lấn át”. Và cách sống xuất thần của Nguyễn Công Trứ thể hiện tài năng, tài hoa, không nhơ nhớp, không vướng bận”, cũng không lối thoát.

Bài tựa “Song thiên” của ông Hi Văn thật độc đáo. Cách diễn đạt của nhà thơ cũng rất độc đáo. Một thế kỷ sau, thi sĩ Tản Đà cũng có nhiều bài thơ viết, nói đậm chất “ngông”. Một bên đẹp xuất thần nhưng tài hoa, một bên ngốc nghếch nhưng lãng mạn đến phát chán.

Thơ nói của Nguyễn Công Trứ đạt đến đỉnh cao của nghệ thuật. Các chữ Hán mang sự uy nghiêm và uyên bác. Thơ và nhạc kết hợp hài hòa, hấp dẫn.

Trong thi ca cổ điển Việt Nam, Nguyễn Công Trứ, Cao Bá Quát, Dương Khuê, Nguyễn Khuyến, Tản Đà là những nhà thơ lớn đã để lại nhiều thiên anh hùng ca. Nguyễn Công Trứ đã tạo nên một giọng điệu mạnh mẽ, hào hùng, đậm chất tài tử pha lẫn với vẻ hào hùng, duyên nợ, nam tính. Đó là phong cách nghệ thuật, cốt lõi, bản sắc của thơ nói Nguyễn Công Trứ. “Bài ca ngất ngưởng” thực sự là “Bài hát từ trái tim” của ông Hi Văn, mang lại cho chúng tôi rất nhiều niềm vui.

3. Bài phân tích Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ ấn tượng nhất:

Mỗi người tạo nên một cá tính, mỗi nhà văn cũng có phong cách riêng, nhưng đặc biệt có những cá tính nổi bật khiến người ta nhớ ngay đến người đó. Và Nguyễn Công Trứ có một cá tính đặc biệt như vậy, ông được biết đến với một cá tính đặc biệt, mạnh mẽ đến “ngất ngưởng”. Tính cách ấy khiến người ta nhớ đến anh nhiều hơn. Đặc biệt, nhân cách của ông được thể hiện rất rõ trong bài thơ xuất thần.

Bài hát như một lời tự thuật của Nguyễn Công Trứ về cuộc đời, tài năng và nhân cách của ông. Ông là một bậc đại tài, một nhân cách lớn vượt ra khỏi khuôn khổ của trung đại cũng như của Nho giáo. Ông sinh ra ở Nghệ An, cùng thời với ông có nhiều anh tài nhưng người đời lỡ dở. Phải chăng vì tính cách khá đặc biệt – lập dị và cách sống thật thà mà người ta nhớ đến ông nhiều hơn?

Tác giả mở đầu bằng 5 câu thơ tự thuật về cuộc đời làm quan của mình. Cuộc đời ấy có vinh hoa, vinh quang nhưng cũng lắm gian nan, vất vả:

” Vũ trụ nội mạc phi phận sự
Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”

Chỉ với năm câu thơ, tác giả đã giới thiệu cho chúng ta về cuộc đời làm quan của ông. Trước hết hãy hiểu khái niệm của từ “ngất ngưởng”, là từ đồng nghĩa với ngất nghểu, có thể hiểu là người luôn ở trong trạng thái cao, không ổn định, chao đảo, lắc lư như rơi thẳng xuống. Nguyễn Công Trứ dùng tính từ này để nói về mình, phải chăng là ẩn ý?

Trước hết, câu thơ đầu thể hiện rõ quan niệm sống của Nguyễn Công Trứ. Cùng với lời tuyên ngôn chí làm trai “Nam bắc đông tây chí bơi tứ bể”, câu đầu của bài thơ này còn là lời tuyên ngôn về quan niệm sống trong vũ trụ của chàng.

” Vũ trụ nội mạc phi phận sự”

Tác giả muốn gửi gắm một quan niệm sống của mình. Đó là trong vũ trụ này không có gì là không phải bổn phận của chúng ta. Dường như ta thấy Nguyễn Công Trứ đang đề cao tâm thế của một nhà Nho chính trực. Nó nói lên ý thức về tầm quan trọng cá nhân và sự nhiệt tình của ông đối với cuộc sống.

Sau đó, ông tóm tắt cuộc đời làm quan của mình:

Ông Hi Văn tài bộ đã vào lồng.
Khi Thủ khoa, khi Tham tán, khi Tổng đốc Đông,
Gồm thao lược đã nên tay ngất ngưởng.
Lúc bình Tây, cờ đại tướng,
Có khi về Phủ doãn Thừa Thiên”

Đối với ông, làm quan như “chui vào trong lồng”, ông có nghĩa là tác giả coi việc làm quan như bị nhốt trong lòng. Vì tính cách hào hoa và ý chí “ngất ngưởng” nên tam khí ngũ hành thường trở thành tiêu chuẩn kìm hãm nhân cách của ông. Nguyễn Công Trứ tự xưng là ta, đó là cách xưng hô độc đáo. Dẫu biết làm quan phải mất tự do nhưng ông vẫn làm vì điều đó thể hiện tài năng cũng như hoài bão của ông. Qua đó Nguyễn Công Trứ thể hiện mình là một giá trị sống hiển nhiên không thể phủ nhận.

Cuộc đời làm quan khép lại và mở ra cuộc đời về hưu của Nguyễn Công Trứ. Đúng là người lạ về quê bỏ quan tài, khác hẳn ngày thường:

“Đô môn giải tổ chi niên,
Đạc ngựa bò vàng đeo ngất ngưởng.
Kìa núi nọ phau phau mây trắng,
Tay kiếm cung mà nên dạng từ bì.
Gót tiên theo đủng đỉnh một đôi dì,
Bụt cũng nực cười ông ngất ngưởng”

Chia tay quan trường nhà thơ trở về quê hương quả là “phi thường”. Người ta về quan mở tiệc linh đình trên võng đẹp, cùng lắm là trên lưng ngựa gầy, nhưng Nguyễn Công xưa thì khác. Về quê, không tiệc chia tay, không người đưa tiễn, không kiệu hoa mong ngóng, chỉ mang theo một con bò vàng. Bò đội lốt ngựa thật chỉ Nguyễn Công Trứ mới có!

Trở về quê nhà, nhà thơ ung dung thưởng ngoạn cảnh quê hương, ca trù. Chàng đi viếng chùa tự cười mình bi thương, nhưng thật ra sau lưng có hai cô đào. Tuy sửng sốt nhưng ông không giận mà phải bật cười vì tính cách của lão quan kiêu ngạo kia.

Các câu thơ còn lại đều nói về cuộc đời và thú vui của ông khi về hưu:

 “Được mất dương dương người thái thượng,
Khen chê phơi phới ngọn đông phong.
Khi ca, khi tửu, khi cắc, khi tùng,
Không Phật, không Tiên, không vướng tục.
Chẳng Trái, Nhạc cũng vào phường Hàn, Phú,
Nghĩa vua tôi cho vẹn đạo sơ chung
Trong triều ai ngất ngưởng như ông!”

Cuộc sống của ông từ đây nhàn nhã với những thú vui tao nhã. Đối với ông, khen chê không phải là vấn đề đáng bận tâm, ông chỉ sống theo cách của mình. Không có gì vui hơn trong cuộc sống này là hạnh phúc khi bạn sống thật với chính mình. Ít ai được sống là chính mình nhưng Nguyễn Công Trứ lại làm được điều đó. Từ đây, ông đắm mình trong thú vui ca trù tuổi già mà không vướng bận. Từ “khi” được lặp lại nhiều lần biểu thị sự lặp đi lặp lại của những thú vui đó. Ca trù, rượu mạnh, ông say trong ca hát. Thực sự là một cuộc sống đầy âm nhạc. Bạn cứ sống như vậy, không theo Phật, chỉ sống theo cách của bạn. Đây là câu thơ hay nhất trong bài thơ. Nếu hai dòng đầu dài thể hiện sự thanh thản khi về hưu thì hai dòng cuối tràn ngập nhạc điệu.

Như vậy, có thể thấy Nguyễn Công Trứ là một con người độc đáo, tự nhận thức được tài năng và trí tuệ của mình. Ông sống mà không quan tâm người ta nói gì về mình. Và quả thật bài hát xuất thần đã chuyển tải sự xuất thần của nhà thơ. Bài thơ không chỉ đặc sắc về nội dung mà còn về giọng điệu.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com