Dàn ý phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh? Bài mẫu 1phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh? Bài mẫu 2 phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh? Bài mẫu 3 phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh? Bài mẫu 4 phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh?
Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ tài ba mà còn là một tác giả xuất sắc của nền văn học Việt Nam. Bài thơ Chiều tối là một trong những tác phẩm xuất sắc đó. Hôm nay chúng tôi sẽ gửi đến các bạn những bài mẫu phân tích bài thơ chiều tối hay xuất sắc.
1. Dàn ý phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh:
Mở bài: Giới thiệu về tác giả và tác phẩm
Thân bài:
Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không
Hai câu đầu vẽ nên một bức tranh cuộc sống thơ mộng, êm đềm, đàn chim bay về rừng tìm nơi trú ẩn, mây trôi giữa trời chiều, chỉ vài nét chấm phá, bức tranh (trong bài thơ là bức tranh) của thơ cổ. Tuy nhiên, phong cách thơ cổ kính đó là do sự gần gũi của bút pháp. Thực ra, đây vẫn là chiều nay, với cảnh thực và người thực (người tù – thi sĩ) đang tận mắt chứng kiến.
Bức tranh phong cảnh tuy đẹp và thơ mộng nhưng vẫn phảng phất nét buồn. Sau một ngày lang thang, đến cuối ngày, đàn chim mệt mỏi phải quay về rừng tìm nơi trú ẩn. Cô lẻ loi, một mình. Cô vân mạn dài rộng không bằng trời cao rộng dài. Bản thân bầu trời vẫn rộng như hàng triệu năm qua, nhưng một đám mây duy nhất đó lại càng khiến nó trở nên bao la hơn. Hai câu thơ, đúng nghĩa đen, cũng chỉ một cảnh buồn. Đối với những người bình thường, dù là người hạnh phúc, nhưng trước cảnh tượng ấy, hẳn lòng họ không tránh khỏi một cảm giác xót xa, bàng hoàng. Câu thơ khiến người ta nhớ đến một buổi chiều khác trong thơ cổ:
Trời chiều bảng lảng bóng hoàng hôn,
Tiếng ốc xa đưa vẳng trống dồn
Gác mái ngư ông về viễn phố
Gõ sừng mục tử lại cô thôn
Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn
Kẻ chốn Chương Đài người lữ thứ,
Lấy ai mà kể nỗi hàn ôn
Chiều xưa không lặng mà lòng người chất chứa nỗi buồn. Và cảnh ở đây, là một đơn vị duy nhất. Cảnh ấy nói lên lòng người, phải bùi ngùi. Đúng rồi, chắc là con chim kia, khi chiều muộn nó ùa về. Tuy nhiên, vào lúc này, người tù đã mắt mờ, chân yếu, lại bị gông cùm, vẫn lê bước trên đường dài. Anh ấy không phàn nàn nhưng ai không thể cảm nhận được nỗi đau thực sự của tình huống đó?
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng
Hai câu kết chuyển hướng chuyển động của hình ảnh thơ. Bên trên, cảnh vật bao la và vắng lặng, ánh nắng ban ngày đang tắt dần nhường chỗ cho màn đêm buông xuống. Còn đây, tuy không miêu tả nhưng ai cũng biết trời đất đang về đêm, bóng tối bao trùm khắp nơi. Vậy, điều gì khiến con người cảm nhận được từng bước đi của thời gian, cảm nhận được ánh sáng và bóng tối? Đó là một con chim đơn lẻ bay về nơi cũ. Đặc biệt, đó là ánh hồng của những lò than nơi xóm núi. Đây cũng là sự phá cách, lấy sáng tả tối.
Nhưng sự chuyển biến thực sự của hình tượng thơ không chỉ có thế. Nếu như cảnh trên cao mang một nét buồn hiu quạnh vắng vẻ thì cảnh ở đây dù về đêm vẫn ấm áp và tràn đầy sức sống. Đôi mắt của người nghệ sĩ trong cảnh trước khi phóng ra và phóng lên cao, càng nhìn càng thấy lạc lõng và trống rỗng. Khi những đôi mắt đó nhìn gần, họ bắt gặp một hình ảnh bất ngờ:
Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bóng dáng cô thôn nữ cùng với những công việc tưởng chừng như bình thường hàng ngày đã xua đi nỗi cô đơn nơi núi rừng.
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.
Trong bóng tối, ánh sáng đó càng lan rộng. Trái tim của một người đã từng buồn đau nay được sưởi ấm bằng ngọn lửa ấy. Đến đây, sự vận động của hình tượng thơ đã hoàn chỉnh.
Kết bài: Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài mẫu 1 phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh
Tháp mười đẹp nhất bông sen
Việt Nam đẹp nhất có tên Bác Hồ”
Chủ tịch Hồ Chí Minh không chỉ là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, nhà chính trị kiệt xuất, người trách nhiệm mà còn là nhà thơ có trái tim nhân hậu. Những vần thơ của Bác luôn chứa đựng những tình cảm, tâm tư của một người vì nước, vì dân. Một trong những bài thơ thể hiện rõ nhất tinh thần và phong cách Hồ Chí Minh là bài thơ Chiều tối.
Chiều tối là bài thơ số 31 trong tập thơ Nhật ký trong tù nổi tiếng. Bài thơ được viết năm 1942 trong một ca trực của Bác Hồ.
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa, tầng không”
Bức tranh thiên nhiên hiện lên chút u buồn nên thơ. Những chú chim trời sau một ngày dài tung cánh bay đi tìm thức ăn đã mệt mỏi trở về rừng sâu tìm nơi nghỉ ngơi. Trong không gian bao la của đất trời, cánh chim bé nhỏ chao đảo dù mệt mỏi, chật vật vẫn cố vươn mình bay về tìm nơi trú ẩn. Cánh chim chiều mang một nỗi buồn khôn nguôi. Phải chăng những cánh chim ấy cũng là bàn chân của người tù kia, vẫn miệt mài tìm đường giải phóng quê hương, vẫn khao khát được trở về đặt chân lên Tổ quốc thân yêu? Dù đau đớn, mệt mỏi nhưng anh vẫn không ngừng khao khát được tự do, được bay lượn như cánh chim giữa thế giới bao la.
“Tầng mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Khoảnh khắc hoàng hôn gợi lên bao nỗi buồn xa xăm, nhất là với những ai mang nỗi buồn xa xứ. Lúc này dường như lòng nhà thơ đang chất chứa một nỗi buồn khó tả. Vì thế, cảnh vật trong mắt ông thật buồn và gợi nhớ. Cánh chim chiều mỏi, áng mây cô đơn bơ vơ trôi nhẹ giữa không trung. Cảnh đẹp, yên bình mà sao buồn quá. Phải chăng lòng người nặng trĩu ưu sầu, bởi vì:
“Cảnh nào cảnh chẳng đeo sầu
Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ”
Con người dù mạnh mẽ và lý trí đến đâu cũng sẽ có lúc yếu lòng, mệt mỏi. Chú cũng vậy, buổi chiều là lúc mọi người quây quần bên bữa cơm gia đình, mà chú một mình nơi tù xa, nơi đất khách quê người, mà sao chú không muốn, tại sao không? bạn có thể buồn? Nỗi nhớ quê hương, da diết dường như cuộn trào trong lòng thi nhân.
“Thiếu nữ xóm núi xay ngô tối
Ngô xay vừa xong lò than đã đỏ”
Từ bức tranh thiên nhiên rộng lớn nhưng lạnh lẽo, thấm đẫm nỗi buồn, Bác hướng sự chú ý đến bức tranh cuộc sống ấm áp mà bình dị nơi vùng cao. Hình ảnh cô gái xay ngô không chỉ gợi lên những động tác khỏe khoắn mà còn khắc họa vẻ đẹp của con người, họ đẹp trong lao động bình dị. Bức tranh chiều tà được nhìn từ xa đến gần, từ không gian rừng núi rộng lớn yên tĩnh đến không gian làng quê nhỏ bé mà đầm ấm. Cũng chính sự ấm áp trong cuộc sống bình dị ấy đã thắp lên trong lòng nhà thơ niềm tin yêu cuộc sống và niềm tin mãnh liệt vào tương lai. Chữ “hồng” ở câu thơ cuối được coi là nét tựa của bài thơ, không chỉ thắp sáng cả bài thơ mà còn thể hiện tinh thần lạc quan, niềm tin mãnh liệt của người chiến sĩ cách mạng vào tương lai của đất nước.
Bài thơ được viết theo thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, ngắn gọn, súc tích, giàu giá trị biểu cảm. Điều đặc biệt tạo nên giá trị của bài thơ không chỉ từ nội dung giàu tính nhân văn mà còn từ vẻ đẹp trong nghệ thuật thể hiện. Đó là sức truyền cảm của ngôn từ, là sự kết hợp hài hòa giữa chất liệu cổ điển và tinh thần hiện đại. Đó là sự vận dụng linh hoạt nhiều biện pháp tu từ như điệp ngữ, ẩn dụ, tả cảnh…. Đoạn thơ đã thực sự trở thành một trong những tác phẩm xuất sắc góp phần vào những thành tựu to lớn của nền văn học.
Chiều tối không chỉ thể hiện một tâm hồn nhạy cảm, một tình yêu tha thiết với cuộc đời của nhà thơ mà còn thể hiện một tinh thần lạc quan, yêu đời dù đứng trước nghịch cảnh của người chiến sĩ, nhà cách mạng Hồ Chí Minh.
3. Bài mẫu 2 phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh:
Nhận xét về tập thơ “Nhật ký trong tù” của Hồ Chí Minh, nhà phê bình Nguyễn Đăng Mạnh viết: “Quy luật thống nhất giữa cách mạng và thơ ca chân chính đã khiến Bác Hồ vừa rèn luyện mình trở thành một chiến sĩ cách mạng vĩ đại, vừa chống lại ý chí của ông, đã chuẩn bị cho mình những điều kiện để trở thành một nhà thơ lớn.” Đây là tập thơ chữ Hán được Bác Hồ sáng tác trong thời kỳ Người bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt giam. Một trong những tác phẩm tiêu biểu của tập thơ này là bài thơ “Chiều tối”.
“Chiều tối” được sáng tác trong hoàn cảnh ông bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo vào cuối mùa thu năm 1942. Những khó khăn, thử thách không thể làm chùn bước người chiến sĩ. Bác làm thơ để “ngâm ngâm cho vui” và cũng để chờ ngày được tự do. Những vần thơ của ông không chỉ là “tình yêu vô bờ bến” (Hoàng Trung Thông) mà còn là những vần thơ thép, thể hiện một tinh thần sắt đá.
Chỉ với lối văn miêu tả và vài nét chấm phá của Đường Thi, Hồ Chí Minh đã khắc họa bức tranh thiên nhiên trên đường qua hai câu đầu của bài thơ:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
(Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không)
Chiều tối là lúc những chú chim tung cánh tìm chỗ ngủ sau một ngày kiếm ăn mệt mỏi. Đàn chim bay trong buổi hoàng hôn gợi lên sự nhỏ bé trong một không gian rộng lớn của cả khu rừng. Ta có thể bắt gặp hình ảnh quen thuộc này trong thơ ca truyền thống như ca dao: “Chim bay về núi đêm” hay trong câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan:
“Ngàn mai gió cuốn chim bay mỏi
Dặm liễu sương sa khách bước dồn”
(Cảnh chiều hôm)
Chiều đã buông xuống khép lại một ngày dài, nhường chỗ cho màn đêm và bóng tối ngự trị. Là thời điểm hội tụ vạn vật nhưng cũng là thời điểm gợi lên biết bao nỗi buồn. Những con chim đã tìm được nơi an nghỉ và những người tù rất đau lòng. Anh khao khát một nơi dừng chân và nghỉ ngơi. Mệt mỏi và cô đơn, nhưng người chiến sĩ cách mạng vĩ đại ấy không bao giờ kêu than. Bác đối mặt với hoàn cảnh bằng một ý chí và nghị lực phi thường.
Giữa không gian bao la ấy còn có sự hiện diện của những đám mây bồng bềnh, lẻ loi, cô đơn. So với nguyên tác, bản dịch thiếu chữ “cô” khiến ý thơ không diễn tả được nỗi cô đơn của mây trên trời. Không chỉ có chim mà mây cũng mang một nỗi cô đơn. Bạn phải là người có tình yêu thiên nhiên, yêu cuộc sống nồng nàn thì mới thấy được cái hồn của cảnh vật.
Bức tranh thiên nhiên núi rừng lúc chiều tà được miêu tả qua một vài chi tiết nổi bật đã bộc lộ một hồn thơ. Tâm hồn ấy hòa hợp, đồng cảm với vạn vật bởi giữa vạn vật và chính bản thân nhà thơ đều có nét tương đồng. Tay chân bị gông cùm kẹp chặt nhưng Hồ Chí Minh vẫn giữ được sự điềm tĩnh, đĩnh đạc. Nếu không phải là con người có nghị lực thép và tinh thần lạc quan, có lẽ anh đã không hướng tâm hồn mình ra thế giới bên ngoài để nhìn và cảm nhận chúng. Dễ dàng nhận thấy chất liệu thơ Đường được sử dụng trong hai câu thơ: Chiều chiều, hình ảnh đàn chim, mây trời, những câu tứ tuyệt cổ kính này đều gợi lên một nỗi buồn cô đơn, lẻ loi cho cả một gia đình. người viết lời và người đọc. Đồng thời, những hình ảnh ước lệ này cũng khắc họa sự chuyển động tinh tế của thời gian, của hoàng hôn nơi xứ người.
Nếu hai câu thơ đầu tả bức tranh thiên nhiên núi rừng thì hai câu thơ sau tả cảnh sinh hoạt của con người:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Bao túc ma hoàn lô dĩ hồng”
(Cô em xóm núi xay ngô tối
Xay hết lò than đã rực hồng)
Những dấu hiệu của sự sống con người xuất hiện đẩy lùi nỗi buồn của người tù. Con người là chủ thể, là trung tâm của bức tranh cuộc sống này. Bác đã có cái nhìn từ toàn cảnh đến chi tiết, từ xa đến gần, từ bầu trời xuống mặt đất để thấy được cuộc sống của người dân miền sơn cước. Vòng quay của cối xay ngô được lặp lại đều đặn qua các từ “ma bao túc” cho thấy những vòng quay ấy tiếp tục diễn tả cuộc sống lao động vất vả của những đứa trẻ. Nghệ thuật thông điệp từ đầu đến cuối này cũng cho thấy chu kỳ của thời gian và vũ trụ. Thiếu nữ miền núi đang làm công việc xay ngô đã trở thành tâm điểm chú ý của Bác. Nếu như thơ xưa lấy thiên nhiên làm chủ thể thì trong thơ Bác lấy con người làm chủ thể. Hình ảnh người con gái miền sơn cước bên bếp lửa nấu cơm cho gia đình là một hình ảnh đẹp và toát lên vẻ khỏe khoắn của người con gái miền sơn cước. Cuộc sống lao động, mưu sinh của người dân rất đáng trân trọng.
Thời gian lúc này đã chuyển sang tối, mặc dù trong phiên âm không có từ “tối” nhưng người đọc có thể nhận ra trời tối hoàn toàn khi nhìn vào lò than “cháy”. “Hồng” là nhãn, là điểm sáng của bài thơ, là hình ảnh thơ có sự vận động từ bóng tối đến ánh sáng, từ nỗi buồn đến niềm vui, từ cái chết đến sự sống, từ cô đơn đến đoàn tụ, sum vầy. Hình ảnh lò than “rực lửa” là một hình ảnh giản dị nhưng đầy ý nghĩa. Nó gợi bao hơi ấm, xua đi cái lạnh của núi rừng và nỗi cô đơn của con người. Ngọn lửa ấy cũng thắp lên một niềm tin cách mạng mãnh liệt rằng cách mạng nhất định thắng lợi.
Nhà tù Tưởng Giới Thạch không thể hong khô tâm hồn Bác. Ngay cả khi bị dày vò về thể xác, Bác vẫn hướng tâm hồn mình ra thế giới bên ngoài để hòa hợp, đồng cảm với sinh vật và con người. Anh đã quên đi những nhọc nhằn để tận hưởng những niềm vui nhỏ bé, giản dị của người dân lao động. Vẻ đẹp của một vĩ nhân, trí tuệ vĩ đại, dũng khí vĩ đại tỏa sáng. Đoạn thơ đã thể hiện niềm lạc quan cách mạng mãnh liệt, dòng thơ và hình ảnh thơ luôn vận động hướng tới sự sống và ánh sáng. Đây là một trong những nét cơ bản của phong cách thơ Hồ Chí Minh. Ngoài ra, sự kết hợp giữa màu sắc cổ điển với tinh thần hiện đại cũng góp phần không nhỏ vào thành công của tác phẩm.
“Chiều tối” cho thấy tâm hồn người chiến sĩ cách mạng và tâm hồn nhà thơ đã hòa làm một. Bài thơ nào của Bác cũng có chất thép, chất thép toát lên từ tư tưởng của người chiến sĩ lớn. Chẳng thế mà nhà thơ Tố Hữu đã viết về Bác bằng những câu thơ xúc động:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu, mắt mờ, tóc bạc
Mà thơ bay cánh hạc ung dung”
(Theo chân Bác)
4. Bài mẫu 3 phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh:
Bên cạnh sự nghiệp chính trị vẻ vang, Hồ Chí Minh còn có một sự nghiệp sáng tác vô cùng đồ sộ và quý báu. Có thể nói, trong suốt chặng đường cách mạng gian khổ, làm thơ dường như đã trở thành một phần không thể thiếu trong hành trình giải phóng dân tộc của Bác. Mang đậm nét thơ trữ tình chính trị, các tác phẩm của Hồ Chí Minh không chỉ đề cao tinh thần yêu nước, đánh giặc mà còn chứa đựng vẻ đẹp tinh thần đáng quý của vị lãnh tụ dũng mãnh. Chiều tối (Mộ) là một trong những tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp văn học của Hồ Chí Minh, không chỉ thể hiện những gian khổ, khó khăn Người đã phải trải qua trong quá trình hoạt động cách mạng mà quan trọng hơn hết là xuyên suốt cuộc đời Người. Ở đó ta thấy vẻ đẹp đáng quý của tâm hồn nhà thơ, chiến sĩ Hồ Chí Minh.
Sau nhiều năm lưu lạc ở nước ngoài, về nước chưa được bao lâu, Hồ Chí Minh lại tiếp tục sang Trung Quốc để tranh thủ sự viện trợ của quốc tế cho cách mạng Việt Nam. Sau nửa tháng vất vả đi bộ băng rừng, khi sang đến bên kia biên giới, Bác bị chính quyền Tưởng Giới Thạch bắt, Bác rơi vào vòng lao lý 13 tháng. Cuộc sống trong tù cùng với những chặng đường gian lao được ông ghi lại bằng 134 bài thơ trong tập Nhật ký trong tù. Nhận xét về tập thơ này, nhà thơ Tố Hữu đã viết những dòng rất xúc động rằng:
“Lại thương nỗi đọa đày thân Bác
Mười bốn trăng tê tái gông cùm
Ôi chân yếu mắt mờ tóc bạc
Mà thơ bay…cánh hạc ung dung”
Chiều tối là bài thơ tiêu biểu nhất trong số 134 bài thơ của Dũng trung nhật ký, ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, đó là vào một buổi chiều cuối thu năm 1942, khi Bác bị áp giải từ nhà lao Tĩnh Tây sang nhà lao Thiên Bảo (Trung Quốc). Đứng trước cảnh gông cùm chân đứng nơi đất khách quê người, nhưng với tấm lòng lạc quan, yêu thiên nhiên, con người Hồ Chủ tịch vẫn hồn nhiên viết nên những vần thơ thật ấm áp, xua tan bóng tối, hiu quạnh giữa núi rừng. Phong cách cổ điển và thơ hiện đại đã tạo cho dạ hội một diện mạo riêng, thơ không chỉ là những tình cảm ngẫu hứng mà còn chứa đựng vẻ đẹp tâm hồn cao cả, những hoài bão, khát vọng lý tưởng cách mạng đang nảy nở.
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không”
Cảnh thiên nhiên buổi chiều tà được Bác phác họa qua hai hình ảnh cánh chim và đám mây – những chất liệu quen thuộc thường thấy trong thơ ca cổ điển xưa khi nhà thơ miêu tả cảnh hoàng hôn. Đọc những câu thơ này, người ta dễ liên tưởng đến hình ảnh nhân vật trữ tình đứng giữa đất trời, mắt nhìn vào không trung, vô tình bắt gặp những cánh chim đen trên nền trời, cùng những đám mây trắng hình vầng trăng. Ánh hồng của buổi chiều tà, thật là một khung cảnh đầy cảm xúc thơ mộng, một cảm giác tự do và phiêu du tràn ngập. Nhưng ít ai biết rằng đằng sau những vần thơ ấy là một người tù với gông cùm nặng nề quanh cổ, xiềng xích quấn quanh chân. Có thể nói, trong hoàn cảnh vô cùng khó khăn như vậy mà Hồ Chí Minh vẫn có thể ung dung ngắm mây trời thì làm sao nhà thơ phải có một tinh thần lạc quan tuyệt đối.
Hai câu thơ đầu của Chiều tối tiêu biểu cho phong cách “thơ và tranh” trong văn học cổ điển, chỉ hai câu thơ ngắn gọn cũng đủ vẽ nên một bức tranh thiên nhiên độc đáo và ý nghĩa. Trước hết là hình ảnh cánh chim trời, nếu như trong thơ cổ, cánh chim bay giữa không trung thường tượng trưng cho sự cô đơn, lạc lõng, mất phương hướng. Trong thơ Hồ Chí Minh, cánh chim mang màu sắc hiện đại hơn, khi nó có một nơi để trở về sau ngày dài lao động mệt nhọc, đó là một tổ ấm hạnh phúc. Không chỉ vậy, ngoài sự chuyển động của cánh chim, anh còn cảm nhận một cách tinh tế sự mệt mỏi ẩn chứa trong từng nhịp đập của cánh chim. Sở dĩ có cảm xúc như vậy là do tác giả đồng cảm với đàn chim, như người cùng cảnh ngộ. Bác vừa trải qua một ngày dài đi bộ mệt mỏi, chân và cánh rã rời, chỉ mong sớm được yên nghỉ. Chỉ khác là con chim có nơi để về, còn Bác không biết lúc nào sẽ yên nghỉ, điều đó cũng khơi dậy trong lòng nhà thơ những cảm xúc bùi ngùi.
Nhưng trên hết, người ta vẫn thấy ở một tấm lòng lạc quan, yêu đời, luôn tìm kiếm những điều tích cực, khi Bác đã tìm được bến đỗ cho đàn chim về Bác vẫn thấy hạnh phúc trong cảnh quan thiên nhiên cô đơn này. Hình ảnh tiếp theo là hình ảnh đám mây bồng bềnh trên bầu trời xanh nhờ ánh hoàng hôn, đây cũng là một trong những chất liệu quen thuộc trong thơ ca cổ điển. Hình ảnh đám mây được nhiều thi nhân xưa sử dụng trong thơ của mình để bộc lộ tinh thần tự do, tự tại, phiêu du, thoát ly thực tại, đồng thời cũng bộc lộ phần nào nỗi cô đơn, lạc lõng của nhân vật lãng mạn. Ý kiến này cũng phù hợp để nói về tâm trạng của Hồ Chí Minh trong cảnh tù đày vô cùng gian khổ, nhưng nếu chỉ dừng lại ở đó thì chưa đủ để lột tả hết vẻ đẹp của thơ Bác. Bởi lẽ, bên cạnh sự cô đơn, lẻ loi của đám mây, người ta còn thấy một tâm hồn lạc quan, thoải mái và cách nhìn mọi việc tích cực. Hai từ “lãng đãng” gợi tả sự chậm rãi trong chuyển động của đám mây, là biểu hiện của cái tình ung dung, ung dung của người lính mặc cho xiềng xích quấn quanh người. Hai chữ “thiên lương” có nghĩa là bầu trời trong xanh, trong sạch như tấm lòng của người chiến sĩ cách mạng, không bị hoàn cảnh ràng buộc, giam cầm. Tất cả những điều đó đã nhấn mạnh và làm nổi bật tinh thần lạc quan và ý chí kiên định của Hồ Chí Minh trong những ngày bị giam cầm, có thể nói không gì có thể làm suy yếu ý chí đó mà chỉ làm cho lý tưởng cách mạng trong trái tim Người ngày càng sáng rõ.
Văn học là nhân học, từ những hình ảnh cổ điển chim, mây mang hơi hướng buồn cô đơn, nhưng đến thơ Bác lại trở nên đầy tính nhân văn. Cánh chim hướng về hạnh phúc, quê hương, thể hiện khát vọng được trở về quê hương đoàn tụ với Tổ quốc, còn đám mây là tinh thần lạc quan, quyết chiến thắng mọi cô đơn, mất mát nơi đất khách quê người, mặc dù ẩn chứa trong đó là nỗi buồn lẻ loi nơi xứ người của thi nhân.
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc
Ma túc bao hoàn lô dĩ hồng”
Hai câu thơ tiếp theo, Bác hướng cái nhìn về cảnh đời của đồng bào vùng cao. Hình ảnh cô gái xay ngô là một hình ảnh đẹp và ý nghĩa, khi con người lao động trở thành trung tâm của bài thơ. Khác với hình ảnh con người trong thơ ca truyền thống luôn bị lu mờ, khuất lấp trước khung cảnh thiên nhiên bao la, như cảnh thơ Bà Huyện Thanh Quan “Lòm lom khom dưới núi mấy chú”, hay của Huy Cận. “Tiếng làng đâu xa tiếng chợ chiều”. Trong thơ Hồ Chí Minh, hình ảnh cô gái xay ngô thật rõ nét và ấn tượng, tuy giản dị, đời thường nhưng bộc lộ sức sống mãnh liệt và vẻ đẹp khỏe khoắn của tuổi trẻ trong lao động. Có thể nói, hình tượng cô gái xay ngô là một dấu son cho quan niệm thẩm mỹ mới của Hồ Chí Minh, khẳng định vai trò, vị trí của con người trước tự nhiên, vũ trụ bao la, con người làm chủ tự nhiên và sống hài hòa với thiên nhiên. Tất cả đã tạo nên một diện mạo đặc biệt nên thơ với nét cổ điển pha chút hiện đại làm cốt lõi ấn tượng.
Không chỉ vậy, ở hình ảnh cô gái xay ngô tối tăm, người ta còn thấy được niềm mong mỏi, kỳ vọng của tác giả khi luôn hướng về cuộc sống của người dân lao động, về mái ấm bình yên dù gian lao vất vả. công việc vất vả, nhưng ẩn chứa vẻ đẹp mạnh mẽ, tràn đầy hy vọng về một tương lai tốt đẹp hơn.
Ở câu cuối của bài thơ, khi cô gái vừa xay ngô xong, bếp lửa hồng đã chuyển từ chiều sang đêm. Chữ “hồng” đã trở thành nhãn cho cả bài thơ hai mươi tám chữ. Thường thì khi trời tối từ chiều đến sáng, có lẽ bài thơ sẽ kết thúc bằng cảnh bóng tối đen như mực bao trùm núi rừng, bao trùm cả hình ảnh con người, bỏ lại sau lưng sự cô đơn, lạnh lẽo, mênh mông. mang vô tận. Nhưng đến tối, bóng tối lại bắt đầu với hình ảnh chiếc lò than đã ửng hồng, như một khởi đầu ấm áp, tượng trưng cho cuộc sống ban ngày vừa kết thúc, nhưng cuộc sống thường ngày mới thực sự bắt đầu. Chính vì vậy mà người ta không còn cảm nhận được sự tối tăm, u ám mà thay vào đó là một cảm giác ấm áp, một cảnh tượng mới lại có thể tiếp diễn ngay khi cô gái xay xong bắp ngô tối, đó là cảnh một bữa cơm đầm ấm, hạnh phúc bên gia đình.
Đặc biệt từ “hồng” như làm bừng sáng cả bài thơ, xua tan không khí u tối, hiu quạnh nơi núi rừng, khung cảnh thiên nhiên rộng lớn bỗng thu nhỏ lại chỉ còn hình ảnh một lò than, một mái nhà ấm áp với những con người lao động nhỏ bé nhưng đậm chất dân dã. Thơ Hồ Chí Minh luôn lạc quan tươi sáng, luôn hướng về ánh sáng và sự sống. Nhìn xa hơn về cuộc đời và sự nghiệp của Hồ Chí Minh, chữ “hồng” ở cuối bài hàm chứa những ý nghĩa sâu xa, hình ảnh cô gái xay ngô đầy khó khăn, vất vả, giống như cảnh Bác xiềng xích quấn quanh người. Khi cô gái xay ngô xong, lò than rực hồng, là hình ảnh ẩn dụ của Bác Hồ sau khi vượt qua hoàn cảnh ngục tù, ngày cách mạng đã sáng, tương lai còn tươi sáng phía trước. Có thể nói, “màu hồng” cũng là đại diện cho màu lý tưởng cách mạng ở người lính, nồng nhiệt, tràn đầy nhiệt huyết, sẵn sàng vượt qua nghịch cảnh tăm tối để tỏa sáng. Đó chính là chất thép tiềm ẩn trong thơ Hồ Chí Minh, tinh tế và ý nghĩa.
Chiều là một trong những bài thơ hay nhất của Hồ Chí Minh khi có sự hòa quyện giữa nét cổ điển và hiện đại, tư duy thơ sâu sắc, tinh tế khi lời thơ ngắn gọn, súc tích mà ý thơ phong phú và nhiều trường phái phát triển. Chiều tối, bên cạnh vẻ đẹp của tinh thần lạc quan, yêu đời, sống chan hòa với thiên nhiên, ta còn thấy vẻ đẹp của trái tim vị lãnh tụ vĩ đại khi luôn hướng về cuộc sống của nhân dân lao động trái tim ấm nóng luôn có chất thép ngầm bền chặt, vững vàng và tuyệt đối trung thành với lý tưởng cách mạng sáng ngời trở thành động lực to lớn để người chiến sĩ bước tiếp trên con đường đấu tranh giải phóng dân tộc nhiều vinh quang nhưng cũng không ít gian khổ sau này.
5. Bài mẫu 4 phân tích bài thơ Chiều tối – Hồ Chí Minh:
Hồ Chí Minh là cái tên mà mọi người dân Việt Nam đều khắc ghi trong tim với lòng kính yêu và kính trọng vô bờ bến. Trong công cuộc giành lại tự do cho dân tộc, Bác đã phải chịu muôn vàn gian khổ, gian khổ, nhiều lần bị bắt, chuyển hết nhà tù này đến nhà tù khác, bị đánh đập, tra tấn dã man. Tuy nhiên, trong hoàn cảnh khó khăn đó, ở anh vẫn tỏa sáng một tinh thần lạc quan, một niềm tin vào một ngày mai tươi sáng. Đoạn thơ “Chiều tối” trong tập thơ “Nhật ký trong tù” đã thể hiện phần nào tinh thần đó của Người. Bài thơ chỉ đơn giản tả cảnh quê vào một buổi chiều tà, nhưng ẩn chứa trong đó là ước mơ tự do cho mình, ước mơ được trở về quê hương để tiếp tục sứ mệnh của mình.
Bài thơ được sáng tác khi Bác bị giải từ nhà lao Tĩnh Tây đến nhà lao Thiên Bảo. Hình ảnh buổi tối qua con mắt của một tù nhân bị cùm tay chân:
“Quyện điểu quy lâm tầm túc thụ
Cô vân mạn mạn độ thiên không.”
Dịch thơ:
“Chim mỏi về rừng tìm chốn ngủ,
Chòm mây trôi nhẹ giữa tầng không.”
Thời gian buổi chiều là khoảng thời gian mang nhiều tâm trạng nhất của con người. Buổi chiều thường mang cho ta không khí đoàn tụ, nhưng cũng là khi con người ta cảm thấy sự cô đơn, hiu vắng nếu không có một chốn để trở về. Cánh chim mỏi sau một ngày kiếm ăn cũng đã bay về tổ của mình. Trên không trung chỉ còn lững lờ một chòm mây. Giữa thiên nhiên bao la hùng vĩ, con người và cảnh vật đều như dừng lại, chỉ có chòm mây ấy vẫn nhẹ nhàng trôi, càng làm nổi bật lên sự yên ắng, êm ả của buổi chiều tối nơi rừng núi. Chòm mây ấy cũng giống như Bác, đang trong tình cảnh tù tội, vẫn phải cô độc bước đi. Chòm mây cô đơn, lặng lẽ, Bác cũng lặng lẽ, cô đơn. Tuy vậy, phải là một người có lòng yêu thiên nhiên, có một tâm thái ung dung, bình tĩnh, lạc quan, mạnh mẽ vượt lên mọi thử thách về thể xác để ngắm thiên nhiên, hòa mình với thiên nhiên như thế. Thân xác mỏi rã rời vì phải đi cả ngày đường vất vả, nhưng Bác vẫn dõi mắt theo cánh chim về tổ, tầng mây lững lờ trôi lúc chiều về.
Tuy chỉ vỏn vẹn trong hai câu thơ bảy chữ, nhưng cũng đã khiến cho người đọc tưởng tượng ra một khung cảnh chiều muộn nơi rừng núi thật mênh mông, âm u, vắng vẻ, quạnh quẽ. Đồng thời, cũng nói lên niềm mong ước quay trở về với quê hương, ước mong được tự do như đám mây kia.
Trong khung cảnh thiên nhiên mênh mông, đượm nét buồn lúc chiều muộn nơi rừng núi, bỗng xuất hiện con người:
“Sơn thôn thiếu nữ ma bao túc,
Bao túc ma hoàn, lô dĩ hồng.”
Dịch thơ:
“Cô em xóm núi xay ngô tối,
Xay hết, lò than đã rực hồng.”
Giữa khung cảnh buồn của thiên nhiên như trong thơ cổ, người sơn nữ hiện lên như một điểm sáng, làm cho cả bức tranh thêm sinh động, tươi vui. Đó là nét cổ điển mà hiện đại của thơ Hồ Chí Minh. Bức tranh có cả con người và các hoạt động lành mạnh của con người trong đó. Đó là vẻ đẹp và giá trị của người dân lao động. Cô gái đang xay ngô bên đống than hồng để chuẩn bị bữa tối. Ở đây, bản dịch thơ chưa đảm bảo tính nghệ thuật của chữ Hán. Bác lặp lại hai từ “hòa” ở cuối câu thứ ba, đầu câu thứ tư, như những vòng quay nối tiếp nhau của người con gái, như vòng quay của thời gian, trời tối dần, tối dần. Bức tranh ấm áp bởi cảnh lao động khỏe khoắn của những người phụ nữ lao động và bởi ánh hồng của bếp lò. Đó chỉ là một niềm hạnh phúc giản dị, vậy mà Bác vẫn gác lại mọi đau đớn, mệt mỏi về thể xác để cảm nhận.
Nhà văn Nam Cao đã viết: “Chân đau thì còn tâm trí nào mà nghĩ đến người khác”, ý nói con người thường hay lo cho nỗi khổ của mình. Tuy nhiên, ở Bác – một người luôn lo cho dân tộc, cho đất nước – Bác vẫn quan tâm đến những điều nhỏ bé, bình dị nhất. Đó là đức tính cao quý của vị lãnh tụ vĩ đại của chúng ta.
Bài thơ “Bữa tối” là bài thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp cổ điển và hiện đại của thơ Hồ Chí Minh. Bài thơ giản dị tả cảnh thiên nhiên và con người nơi xóm núi trong buổi chiều tà, đồng thời cũng chứa đựng trong đó niềm khát khao được tự do, đoàn tụ. Đồng thời, ở Bác, ta luôn thấy vẻ đẹp của một tinh thần vị tha, của một trái tim yêu thương luôn quan tâm đến những điều giản dị nhất.