Nguyễn Ái Quốc vị lãnh tụ vĩ đại của nhân dân Việt Nam- người có công lao to lơn trong việc giải phóng Việt Nam khỏi nô lệ. Bác là người tài hoa yêu nước và làm thơ rất hay. Trong đó có bài thờ Pác Bó tái hiện cuộc sống vất vả khó khăn của kháng chiến nhưng lại toát lên tinh thần bất khuất lạc quan tin vào tương lai. Sau đây là một số mẫu phân tích hay có chọn lọc của bài thơ.
1. Dàn ý phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó:
Mở bài
– Giới thiệu chân dung tác giả Hồ Chí Minh
+ Hồ Chí Minh (1890 – 1969) là người lãnh tụ tài năng kiệt xuất, một nhà thơ lớn của dân tộc Việt Nam, danh nhân văn hoá thế giới.
– Giới thiệu bài thơ Tức Cảnh Pác Bó:
+ Bài thơ ra đời vào khoảng tháng 2/1941 mô tả cuộc sống sinh hoạt phong phú, sôi động, phong thái ung dung tự tại và tinh thần lạc quan cách mạng của người chiến sỹ cộng sản giữa điều kiện gian khổ khó khăn vất vả ở Pác Bó.
Thân bài
Khái quát nội dung bài thơ:
– Hoàn cảnh sáng tác:
Năm 1941, Chủ tịch Hồ Chí Minh bí mật trở lại Pác Bó, Cao Bằng sau những năm bôn ba hải ngoại tìm đường cứu Tổ quốc.
Người sống và làm việc ở trong hang Pác Bó với điều kiện sinh hoạt vô cùng khó khăn.
Giá trị tư tưởng: Bài thơ cho biết sự bất khuất và phong thái thanh cao của Bác Hồ đối với đời sống cách mạng vô cùng khó khăn ở Pác Pó. Với bác được làm cách mạng và sống hoà đồng với thiên nhiên là một niềm vui lớn.
Luận điểm 1: Cảnh sống và công tác của Bác ở núi rừng Pác Bó (3 câu thơ đầu)
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng ”
Hành động: Ra – vào.
Thời điểm: Sáng – tối. -> Phép đối chỉnh thể hiện sự ổn định, linh hoạt, thường xuyên thay đổi của Bác khi về Pác Pó.
Không gian: Suối – hang -> 2 địa điểm công tác và sinh hoạt thường xuyên của Bác
=>Cuộc sống bí mật song Bác luôn giữ vững nền nếp, kỷ cương và phong thái độc lập, tự chủ.
Ăn uống dân dã: “Cháo bẹ, rau lang” (cháo gạo với rau cải) -> Các thức ăn luôn có sẵn trong vườn.
“vẫn sẵn sàng” -> thực phẩm luôn có sẵn trong rừng. -> Tâm thế luôn sẵn sàng đối mặt với gian khổ, hiểm nguy của người chiến sỹ cách mạng.
“bàn đá chông chênh” -> Điều kiện lao động thiếu thốn, không có bàn nên đã kê các hòn đá to không chắc chắn.
“dịch sử Đảng” -> Bác mượn cuốn “Lịch sử Đảng Cộng sản Liên Xô” để viết tài liệu giảng dạy đối với lớp lão thành cách mạng
=> Tuy cuộc sống ở nơi rừng núi hoang sơ rất khó khăn, gian khổ, nguy hiểm cận kề, nhưng Bác vẫn yêu nước, yêu sự nghiệp cách mạng và hoàn toàn làm chủ cuộc sống.
Luận điểm 2: Tinh thần lạc quan và phong thái gần gũi, hoà đồng với thiên nhiên của Bác (câu thơ cuối)
“Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Cuộc sống tuy có những vất vả, khó khăn song Bác lại luôn thấy vui, yêu đời và giữ vững một tinh thần “thép”.
“sang “: sự giàu có của vật chất
-> Ở đây, cái hay của Bác là cái đẹp của cuộc đời lao động, khi sống giữa núi rừng, dưới trời tổ quốc để đóng góp hết sức mình vào giải phóng dân tộc và đem tới cuộc sống hạnh phúc, ấm no cho nhân dân.
=> Tinh thần yêu nước nồng nàn, phong thái ung dung, vui tươi, tự tại, hoà mình với thiên nhiên.
Đặc sắc nghệ thuật:
Giọng thơ lục bát ngắn gọn, súc tích;
Phong cách giản dị, chân thành của bác – Giọng thơ dí dỏm, vui tươi thể hiện tinh thần lạc quan của Bác
Phép đối chỉnh mang tới hiệu quả thẩm mỹ cao.
Vừa mang đặc trưng cổ điển, truyền thống vừa mới mẻ và sáng tạo.
Tạo được tứ thơ hay, mới lạ, hấp dẫn và độc đáo.
Kết bài
– Cần khái quát lại giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ
– Cảm nhận của em về giá trị tinh thần của bài thơ.
2. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh hay nhất:
Bác Hồ chẳng những là vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc Việt Nam, Bác cũng là một đại thi gia của dân tộc. Những tác phẩm do người để lại vào kho tàng văn hoá dân tộc dù không cầu kỳ, chau chuốt song chúng là các hòn ngọc minh châu không thể thiếu và là niềm tự hào của đất nước. Một trong số các bài thơ như thế này là “Tức cảnh Pác – bó” được sáng tác vào khoảng tháng 2 năm 1941, tại hang Pác – bó (Cao Bằng) , khi Người quay trở lại Việt Nam sống và hoạt động sau hơn ba mươi năm tham gia chính trị ở hải ngoại.
Đến với bài thơ ta đã nhìn thấy một sự vô tư ở ngay trong cách biểu đạt:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Nhịp thơ 3/3 với dấu phẩy ở giữa dòng phân chia câu thành hai vế cân xứng chính là một lời miêu tả chân thực nhất nhịp sinh hoạt thường nhật của Bác nơi núi rừng Pác – bó. Hoạt động và sinh sống ở nước ngoài nhiều năm nên Bác dường như đã quen thuộc với một nếp sống có kỷ luật, ở tại hang Pác – bó cũng thế, Bác sinh hoạt và làm việc đều đặn theo giờ giấc phân bố. Sáng bác ra suối, để tắm và đi vệ sinh rồi buổi tối lại về hang nằm nghỉ. Bác sinh hoạt có nền nếp và đương nhiên ăn cũng đạm bạc:
“Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng”
Hai từ “sẵn sàng” thốt lên nghe lại có vẻ như tạo nên một sự đủ đầy, cần là có ngay chứ không phải thiếu thốn một điều gì. Nhưng thực tế, bữa cơm hàng ngày của bác chỉ có bẹ sắn và măng rừng, những món rất là đạm bạc, nếu không muốn nói là thiếu thốn. Ở nơi núi rừng Pác – bó này không tìm đâu được một thứ thực phẩm tuyệt vời như là rau củ hay là canh măng, điều này đã chứng minh Bác đang phải lao động và sống trong một hoàn cảnh hết sức khó khăn, ăn uống làm sao mà nói là đủ đầy. Nhưng sự khó khăn đó cũng được Hồ Chủ Tịch nói đến bằng giọng điệu dịu dàng để chứng minh, Bác với những điều kiện vật chất bình thường thì không phải là cần thiết. Đối với Bác, việc cần nhất lúc này là dân, là nước và là đánh giặc xâm lược:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Hơn ba mươi năm sau cách mạng quay về nước, Bác Hồ lại ngày ngày trên con đường tìm kiếm ánh sáng cho dân tộc. Trong cái giá lạnh của rừng núi, trong sự thiếu thốn của ánh sáng, trên một chiếc bàn đá không mấy vững chắc, Người đang cặm cụi dịch lịch sử Đảng Cộng Sản Liên Xô thành sách để những chiến sĩ cách mạng đọc. Hai hình ảnh đối lập, một bên là cái bàn đá “chông chênh” bấp bênh, không chắc với một bên là công việc quan trọng nhất Bác đang thực hiện: mở cửa đưa kiến thức cách mạng về với mỗi người chiến sĩ cách mạng. Điều này vừa làm nổi rõ những khó khăn về hoàn cảnh cuộc sống và công tác của Bác đồng thời thể hiện được trách nhiệm lớn lao mà Bác đang gánh trên vai. Sau bao sự vất vả khó khăn thiếu thốn vật chất và nhiều việc cần phải hoàn thành, Bác Hồ đã kết thúc lời thơ:
“Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Chỉ một từ “sang” làm cả tinh thần bài thơ bừng lên. Nhiều người cũng thắc mắc vì sao Bác nói đời cách mạng vất vả là “sang”. Cái sang ở đây không phải là sự sang về vật chất nữa mà còn giàu hơn rất nhiều thứ khác. “Sang” là có một cuộc sống hoà mình với thiên nhiên, dù không xa hoa nhưng gần gũi và hoà hợp với thiên nhiên làm cho tinh thần tươi vui phơi phới. “Sang” ở đây là một tấm lòng hạnh phúc khi luôn sống và cống hiến vì cộng đồng, vì tổ quốc, những việc làm có ý nghĩa với đất nước. “Sang” ở đây là dù thiếu thốn của cải vật chất nhưng tinh thần con người vẫn tràn trề đủ đầy một niềm lạc quan khi ngày thống nhất đất nước đang sắp tới.
Với ý thơ dung dị, gần gũi, lời thơ hào sảng và tràn đầy tinh thần lạc quan, Hồ Chủ Tịch đã cho chúng ta biết được “thú lâm tuyền” của Người chứ không phải là những thú vui của Nguyễn Trãi, Nguyễn BỈnh Khiêm năm xưa “lánh đục về trong” mà lại là sự hoạt ngôn, hoà mình với thiên nhiên ngay trong cuộc đời người lính. Ở Hồ Chí Minh, niềm vui hoà mình với thiên nhiên luôn gắn với cuộc đời cách mạng, cuộc đời lao động hăng say không ngừng vì dân vì nước.
Bài thơ là sự mô tả các hoạt động đời thường của Bác Hồ trong chuỗi ngày hoạt động cách mạng ở hang Pác – bó, Cao Bằng. Qua lời thơ, hình ảnh Bác Hồ trong mắt người xem vừa thêm đẹp, lại sáng long lanh bởi cuộc sống bình dị, gần gũi, tình yêu thiên nhiên bao la và lý tưởng cách mạng cùng tài năng thơ ca tuyệt diệu. Nhân cách cao khiến của Người luôn sống trọn trong trái tim tất cả con dân nước Việt.
3. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh ý nghĩa nhất:
Hồ Chí Minh- vị lãnh tụ vĩ đại của dân tộc đã từng nói: “Tôi chỉ có một ham muốn, một ham muốn tột bậc là làm sao cho dân ta ai cũng được cơm ăn áo mặc ai cũng được học hành”. Chính vì hoài bão đó mà trong khoảng thời gian hoạt động cách mạng, cho dù gian lao cực khổ đến đâu Bác cũng không ngại vượt qua. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một trong những minh chứng rõ ràng cho hoài bão này. Tác Phẩm không chỉ nêu nên những khó khăn gian khổ mà còn giúp người xem thấy rõ sự lạc quan, yêu đời. Dù khó khăn về vật chất nhưng trái tim Bác luôn tràn ngập tình cảm quê hương cùng niềm tin tưởng ở tương lai tốt đẹp.
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.”
Đã gần ba mươi năm làm nhiệm vụ tại hải ngoại, tháng 2 năm 1941, Bác quay trở lại Quê hương tiếp tục chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Khi đó Bác đã sống và làm việc trong hoàn cảnh vô cùng gian khổ: trong hang Pác Bó – một hang núi nhỏ thuộc huyện Hà Giang, tỉnh Cao Bằng. Vậy mà đối với Bác đó dường như chẳng hề chi, vẫn phong thái ung dung, ẩn sâu bên trong đó là một ý chí và lòng yêu nước mãnh liệt:
“Sáng ra bờ suối, tối vào hang”
Vần thơ mang giai điệu nhịp nhàng mà nề nếp và hài hòa. Giống như một thói quen thường ngày của Bác thế, phong cách sống và công việc của Bác cũng diễn ra chỉ với 1 câu thơ cứ như mọi khi, vào mỗi buổi sáng Bác đều đến bờ suối tập thể dục cùng với tiếng con sóng chảy rì rào, với tảng đá gần bên, Người hoà tâm hồn mình với thiên nhiên, không phải như các vị hiền triết ngày xưa mà Người luôn trăn trở suy tư lo toan cho dân cho nước. 9H buổi tối là khoảng giờ mọi người có thể nghỉ. Mọi thứ đều thật giản dị và không có vấn đề chi cả, vì đâu ai biết được tiết trời miền bắc, giá rét như thế nên Bác mới sống trong chiếc hang động nhỏ xíu ấy mà Bác nào có để ý về chúng. Câu thơ đầu biểu hiện sự vui vẻ và hoà vào cảnh sắc thiên nhiên trời đất. Đến câu thơ cuối cùng, câu thơ thứ hai đã mô tả khẩu phần ăn uống đơn sơ mà giản dị của Người: “Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng” Đây là những món ngon có sẵn và dễ dàng tìm nơi rừng Pác Bó. Không có các món ăn theo cầu kỳ mà chủ yếu là “cháo bẹ, rau măng” và Tất cả cùng bằng lòng với đời sống nơi đây. Từ “sẵn sàng” phải chăng thể hiện tinh thần cách mạng của Người hay cũng chính là để nói lên những món ăn thanh đạm nơi núi rừng luôn sẵn có để phục vụ Bác?
Dù là thế nào đi chăng nữa thì câu thơ cũng đem đến cho người xem cảm giác gần gũi của bậc cha già dân tộc. Người không kêu ca mà đón nhận đời sống như thể một lẽ tự nhiên. Trong câu thơ thứ nhất về nếp sinh hoạt sau câu thơ thứ hai như các bữa ăn thường ngày thì ở câu thơ thứ ba là hình ảnh Người đang làm:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng”
Không còn là một bộ ghế ngay ngắn, sạch sẽ mà lại là hình ảnh vị lãnh đạo kê sách sử lên trên một tảng đá và chăm chú tập trung vào sự nghiệp cách mạng. Cách vần với “ang” gợi giác mở rộng hơn khi ở nhà, do đó đem đến sự mạnh mẽ và phóng khoáng cho lời ca. Hai chữ “chông chênh” là từ láy tạo hình cộng với các từ có vần chắc chắn “dịch sử Đảng” rất khoẻ khoắn và đem đến cảm giác thăng bằng cho thơ. Điều kỳ diệu chủ thể của bộ ảnh lại là con người mà không phải thiên nhiên. Nhà thơ sống hài hoà với thiên nhiên còn là một chiến sĩ cách mạng vĩ đại. Đằng sau hình ảnh Bác đang say sưa đọc lịch sử Đảng chính là bóng dáng của người lãnh đạo đất nước, của dân tộc Việt Nam.
Phía trên nơi Bác đang đọc sách lịch sử Đảng vẫn là hình ảnh của người lãnh tụ kính yêu nhất của nhân dân Việt Nam:
“Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Chẳng cần gì các vật dụng cao, rộng nhiều tiện nghi, Bác chỉ cần có được sự bình dị mà đôi phần kham khổ. Nhưng mọi việc như vậy không ngăn cản nổi một tinh thần thép, một ý chí kiên cường và tình thương yêu vì dân cho nước. Ba câu cuối cùng là hình tượng về Pác Bó – nơi Bác đã ở để sinh hoạt cách mạng, với biết bao sự gian khổ nhưng đối với Người như thế đã tròn đầy lắm chưa. Từ “sang” kết thúc đoạn thơ đã làm rõ nội dung của cả tác phẩm. Ây cũng là một nhãn thức của đoạn thơ giản dị này. Không những đem đến cho người xem niềm tin tưởng niềm tự hào ở tương lai phía trước và nhìn thấy sự lạc lối của Hồ Chủ tịch. Thơ của Bác tuy đơn giản mà rất sâu sắc, vừa gần gũi với thiên nhiên lại càng đi kèm với sự nghiệp cách mạng. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” vừa có màu sắc hoài cổ nhưng vẫn mang tinh thần dân tộc với nhiều ý chí và niềm tin vào điều mới của Người. Chính nó đã khiến chúng ta càng cảm phục hơn về Bác và hiểu rõ hơn vị Cha già của dân tộc.
4. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh ngắn gọn nhất:
Tinh thần đó, lạc quan yêu đời trong bất cứ lúc nào cũng là những nét tiêu biểu về nhân cách của Chủ tịch Hồ Chí Minh. Tinh thần lạc quan đã trở thành một vũ khí trong đấu tranh và chiến thắng tất cả khó khăn và quân thù. Thơ tức là người, thơ Bác biểu hiện rõ ràng ý chí chính trị cao đẹp của người chiến sỹ cách mạng kiên cường. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” mới viết tháng 2 năm 1941 núi rừng Pác Bó là một trong không những vần thơ in đậm nét tinh thần đó của Bác:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang,
Cháo bẹ, rau măng vẫn sẵn sàng.
Bàn đá chông chênh, dịch sử Đảng,
Cuộc đời cách mạng thật là sang.
Thời gian này Bác về nước và tiếp tục chỉ đạo phong trào cách mạng Việt Nam. Trong điều kiện sinh hoạt hết sức gian khổ với “Cháo bẹ rau măng”, ăn uống trên “bàn đá chông chênh”, lời thơ tràn ngập niềm vui sướng và hạnh phúc của một con người dám vươn qua khó khăn để hướng về một mục tiêu cao cả, ấy là công cuộc độc lập tự do.
Mở đầu bài thơ tứ tuyệt, Bác viết:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Câu thơ gọn gàng, cô đọng, chỉ có bảy chữ mà lại có đầy đủ thời gian và địa điểm. Thời gian là “sáng” hoặc “tối”, không gian là “bờ suối” hay “hang” và trên nền tảng của thời gian, địa điểm đó thể hiện hình ảnh của một người đang ngày đêm lao động. Cái từ chỉ thời gian “sáng ra” và “tối vào” gợi lên chúng ta những tưởng tượng mới. Điểm đặc biệt của câu thơ là việc tác giả luôn chú trọng vào trật tự của hai vế câu. Nếu là: “Tối vào hang, sáng ra bờ suối” thì trật tự sẽ tạo ra giá trị có nghĩa hơn. Chất lạc quan chính là tính cách của người nào đó cho nên trật tự bắt buộc của câu thơ sẽ là:
Sáng ra bờ suối, tối vào hang.
Với trật tự này, cảnh như vận động, không đứng im, theo sự tuần hoàn của thời gian. Vì vậy, ta không lấy làm lạ khi thấy ý “vẫn sẵn sàng” của Bác ở câu thơ tiếp theo:
Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng.
Thơ nói đến một khí phách, một thái độ, một nhân sinh quan mà lời thơ cũng giản dị y như lời nói mỗi ngày. Đặc điểm của thơ lục bát là lời, ý luôn luôn tiết kiệm và một bài thơ hay đã toát nên những “chữ thần”. Cụm từ “vẫn sẵn sàng” là nét chính của tập thơ.
Câu thơ làm chúng ta liên tưởng về lối ứng xử của người quân tử ngày xưa, “quân tử cơm không cầu ngon”. Bác sẵn sàng chấp nhận đời sống vật chất khổ cực với thái độ vui vẻ, hài hước. Bác coi thường sự kham khổ ngay cả trong khi thân xác phải chịu đau đớn, người chiến sỹ cộng sản đó lại hài hước, hóm hỉnh. Lý tưởng bài thơ “Pha trò”, “Ghẻ”, “Dây trói”. .. trong “Nhật kí trong tù” là thái độ an nhiên bình thản trước nhiều điều kiện nghiệt ngã với ý thơ dí dỏm bất ngờ.
Khác với ngày xưa: “An bần lạc đạo”, Bác Hồ là con người giản dị và luôn phấn đấu cho một lí tưởng cao cả:
Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng.
Làm việc trong điều kiện thiếu các đồ dùng thiết yếu và lấy gạch lát thì bàn đá bị “chông chênh”, nhưng thấy rất lạ vì đó là một sự vật. Trong cái nhìn sự việc. Bác đã phát hiện nhiều chi tiết mới và điều ấy chứng tỏ một tâm hồn lạc quan.
Bài thơ kết thúc:
Cuộc đời cách mạng thật là sang!
Ngôn ngữ thơ bình dị mà ý thơ lại sâu sắc. Nếu điểm nhấn của hai câu thơ đầu là chữ “vẫn sẵn sàng” thì sức hấp dẫn của ý thơ được dồn vào đó, đặc biệt với từ “thật là sang!”. Đây cũng là cách nói đùa, làm vui thêm, sự dí dỏm mà ta hay bắt gặp trong thơ và cả sinh hoạt đời thường của Bác. Chất hài càng làm cho bài thơ tạo nên sự khái quát cách mạng cao cả. Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” là một bài thơ giản dị mà sâu lắng. Bài thơ thể hiện một đạo lí sống cao cả với lời thơ giản dị, không chút màu mè hoa mỹ. Giọng điệu thơ cũng gần với câu nói chuyện mỗi ngày, ta có cảm giác Bác không cố tình viết thành thơ nhưng nó sẽ lưu lại hoài trong tâm hồn ta và sức sống trường tồn của lời thơ vẫn là chỗ ấy.
5. Phân tích bài thơ Tức cảnh Pác Bó của Hồ Chí Minh ấn tượng nhất:
Hồ Chí Minh là một vị lãnh tụ vĩ đại của đất nước, một người cha kính yêu của nhân dân đồng thời cũng là một nhà thơ lớn của dân tộc. Các tác phẩm của Người phần lớn là viết trong hoàn cảnh khó khăn nhưng vẫn gợi nên niềm tin yêu mãnh liệt tràn đầy. Một trong số ít các sáng tác nổi bật đó là tập thơ “Tức cảnh Pác Bó”. Bài thơ đã để lại dấu ấn sâu đậm với độc giả trong nước và ở ngoài nước.
Bài thơ “Tức cảnh Pác Bó” được viết vào khoảng tháng 2 năm 1941, kết thúc ba mươi năm sống và làm chính trị ở hải ngoại, Bác quay trở lại nước chỉ đạo cách mạng Việt Nam một cách hoà bình với mục tiêu sớm đạt tới độc lập, thống nhất dân tộc từ ách nô lệ. Bác sống và làm việc trong một hang núi nhỏ sát biên giới Việt – Trung, đó là hang Pác Bó. Cuộc sống sinh hoạt và làm việc đã khiến Bác có cảm hứng sáng tác nên bài thơ này.
Hai câu thơ đầu tiên của bài như miêu tả lối sống và nếp sinh hoạt của Bác:
“Sáng ra bờ suối tối vào hang”
Câu thơ bảy chữ với một phép so sánh “sáng ra” và “tối vào” đã giúp ta hình dung về thói quen sống giản dị của Bác. Ngày nào cũng thế, cứ mỗi buổi sáng là Bác sẽ ra ngoài để làm công việc và đến tối là đi vào rừng nằm nghỉ kết thúc một ngày lao động. Mặc dù công việc rất bận rộn và vất vả song chúng ta cảm nhận ở Người ánh lên một niềm lạc quan vui vẻ, luôn chan hoà với thiên nhiên cây cỏ. Với cuộc sống và công việc vất vả nên bữa cơm của Bác cũng hết sức đơn sơ:
“Cháo bẹ rau măng vẫn sẵn sàng”
“”Cháo bẹ” và “rau măng” là hai món cơm hết sức bình dân giản dị và là các món rất thân quen ở núi rừng Tây Bắc. Bằng giọng nói vui vẻ dí dỏm của mình, Bác đã cho thấy rõ tinh thần thoải mái để thích nghi với điều kiện mới.Tuy là Người chỉ huy toàn dân tham gia chiến tranh và giữ vị trí rất lớn với cách mạng song Người không bao giờ kêu ca nhiều về điều kiện sinh hoạt của bản thân mà trái lại có tỏ ra tự hào về từng vật dụng mình đang dùng. Sự hi sinh ấy của Bác khiến cho chúng ta không thể không khâm phục và ngưỡng mộ con người này. Hai câu thơ sau công việc và quan điểm của Bác trong hoạt động cách mạng:
“Bàn đá chông chênh dịch sử Đảng
Cuộc đời cách mạng thật là sang”
Từ láy “chông chênh” đã giúp người ta mường tượng chiếc bàn công tác của Người không phải luôn vững chắc là cứ như bên thấp bên cao. Nơi công tác của Người được gói gọn trên một chiếc bàn cũ không chắc chắn nhưng trong hoàn cảnh lao động khó mấy thì Người vẫn càng quyết bấy nhiêu. Bác đã không ngại hy sinh bản thân mình để thực hiện công cuộc giải phóng dân tộc. Với Người đó là sự sung sướng không thể diễn tả bằng lời và cũng vì thế nên Người đã nói rằng “cuộc đời này rất là đẹp”. Với một câu thơ ngắn đã cho thấy tinh thần lạc quan cùng tấm lòng yêu nước thương nòi vô bờ bến của Người.
Cũng chỉ với bốn câu thơ ngắn, bằng giọng nói vui vẻ dí dỏm, Bác Hồ đã tái hiện được đời sống sinh hoạt và lao động của nhân dân vô cùng vất vả gian khổ nhưng từ đấy tạo nên tinh thần phấn khởi, lòng tin tưởng vào tương lai ngời sáng của Người. Người chính là vị tổng tư lệnh vĩ đại của toàn dân tộc Việt Nam!