Nỗi lòng của người phụ nữ có chồng đi ra trận thật thống khổ biết bao, ngày đêm mong ngóng tin tức của người chồng, chỉ mong có thể có chút hy vọng, nỗi niềm ấy được thể hiện rõ qua bài Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ, hãy cùng tìm hiểu qua bài viết dưới đây nhé
1. Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ:
1.1. Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ ngắn gọn:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Cô đơn và lạnh lùng bủa vây kẻ chinh phục.
Khát vọng chia sẻ với nỗi nhớ chồng xa.
Nỗi nhớ nhung, khao khát hạnh phúc lứa đôi của người chinh phụ.
Cuộc đấu tranh để thoát khỏi sự cô đơn dằn vặt của kẻ chinh phục.
Kết bài:
Tóm tắt giá trị hiện thực và nhân đạo của tác phẩm Chinh phụ ngâm và đoạn trích Nỗi cô đơn của Chinh phụ ngâm.
Ý nghĩa sâu sắc của tác phẩm và đoạn trích đã học.
Trình bày suy nghĩ của anh (chị) khi tìm hiểu và phân tích Chinh phụ ngâm.
1.2. Dàn ý phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ cụ thể:
Mở bài: giới thiệu tác giả và tác phẩm
Thân bài:
Các hành động lặp đi lặp lại và nhàm chán.
– “Bước đi khẽ khàng”: Bước đi khẽ khàng trên hiên vắng.
– “Niềm tin trong giây lát”: Vào phòng cuốn rèm, buông rèm
→ Hành động lặp đi lặp lại trong vô thức, thể hiện sự bất lực, bấp bênh của kẻ chinh phục
– Từ “vắng thưa”: Không chỉ gợi sự vắng lặng của không gian mà còn cho thấy sự trống vắng trong lòng người chinh phụ.
Tích cực chờ tin
– Ban ngày:
Kẻ chinh phụ đặt hy vọng vào tiếng chim thước – loài chim báo tin vui.
Nhưng sự thật “không thấy chim thước”: Tin tức chồng vẫn bặt vô âm tín.
– Đêm:
Người chinh phụ thức cùng ngọn đèn mong cho ngọn đèn biết tin chồng mà sẻ chia tâm tình.
Thực tại: “Đèn chẳng tỏ” “lòng thiếp riêng bi thiết” Câu thơ có hình thức khẳng định và phủ định đặc biệt, ngọn đèn có biết hay không bởi nó chỉ là vật vô tri vô giác không thể chia sẻ cho nhau.
– Hình ảnh so sánh “đèn hoa” và “bóng người”.
“ đèn” làm bấc, thực chất là than củi. Như đèn cháy hết chỉ có hoa tàn, người đàn bà kiên nhẫn đợi chồng nhưng cuối cùng lại thấy cô đơn trống vắng.
Hãy nghĩ đến nỗi cô đơn của Thúy Kiều sau khi từ biệt Thúc Sinh và trở về với ngôi sao năm cánh:
Những cảm giác khác thường của kẻ chinh phục về thế giới bên ngoài.
“Tiếng gà gáy”, “sương”, “hoa”: Là những hình ảnh gắn liền với cuộc sống thôn quê yên bình, bình dị.
Điệp từ “eo óc, phấp phơ”: Cực tả cảnh hoang vu, ớn lạnh đến rợn người của cảnh vật.
→ Dưới con mắt cô đơn, trống trải của kẻ chinh phụ, những cảnh vật vốn gắn liền với cuộc sống êm đềm, tĩnh lặng giờ trở nên hoang vu, lạnh lẽo lạ thường. Đó là cách tả cảnh để ngụ tình.
Ý thức khác thường của người chinh phụ về thời gian.
“khắc giờ đằng đẵng”, “mối sầu giằng giặc”: Thể hiện sự lan tỏa của nỗi nhớ nhung vô tận.
Biện pháp so sánh kết hợp với từ láy có giá trị gợi hình “dài ơi là dài” cho thấy cảm nhận khác thường về thời gian, từng phút từng giờ trôi qua nặng trĩu như năm dài đằng đẵng, thời gian càng dài nỗi buồn càng nặng.
→ Đoạn thơ diễn tả nỗi cô đơn tột cùng trong lòng người chinh phụ
Các hoạt động cố gắng duy trì cuộc sống hàng ngày.
– Từ “gượng”: nhấn mạnh sự gượng ép của kẻ chinh phục
Mâu thuẫn giữa lý trí và tình cảm:
Thắp hương tìm sự bình yên mà lòng rối bời bởi những suy nghĩ, lo lắng, linh cảm chẳng lành
Tôi nhìn vào gương, nhưng chỉ thấy một khuôn mặt buồn đầy nước mắt.
⇒ Tiểu kết:
Nội dung: Diễn tả tâm trạng cô đơn, lẻ loi, trống vắng của người phụ nữ, ẩn chứa sau đó là thái độ cảm thông, chia sẻ của tác giả trước những đau khổ của con người.
Điều ước của kẻ chinh phục.
“Gió đông”: Gió xuân mang hơi ấm và sự sống
“Non Yên”: chỉ về nơi biên ải xa xôi
“Nghìn vàng”: Ẩn dụ cho tấm lòng của kẻ chinh phục (buồn, cô đơn, lo lắng, trống rỗng, hi vọng rồi lại thất vọng)
→ Bằng những ẩn dụ và câu chuyện thể hiện ước nguyện của người chinh phụ gửi niềm hi vọng và nỗi nhớ vào ngọn gió xuân đưa đến chiến trường xa để người chinh phụ hiểu và quay về bên nàng.
Ký ức của kẻ chinh phục
– Thủ pháp điệp ngữ liên hoàn “Non non thanh bình, thiên địa”: Nhấn mạnh khoảng cách xa xôi, những trở ngại không gì lấp đầy được, đồng thời là nỗi nhớ da diết, đau đớn tột cùng trong lòng người chinh phụ.
– Từ “sâu xa, đau đáu”: Mức độ tột cùng trái ngược của nỗi nhớ, sâu xa là nỗi nhớ da diết, dai dẳng, triền miên, xót xa nhất là nỗi nhớ gắn liền với đau đớn, xót xa.
→ Lời thơ nắm bắt một cách tinh tế và cảm động sắc thái của nỗi nhớ, nỗi nhớ ngày một dâng cao, dồn nén thành nỗi đau da diết.
→ Sự tinh tế, nhạy cảm, hài hòa của tác giả.
Mối quan hệ giữa ngoại cảnh và tâm trạng.
– “Cảnh buồn”, “người thiết tha”: Cảnh và người gặp nhau trong buồn đau
Cảnh vốn là vật vô tri vô giác, nhưng tâm trạng con người đã nhuốm màu cảnh vật.
→ Bút pháp tả cảnh ngụ tình, người chinh phụ hướng nỗi buồn ra khỏi cảnh khiến cho cảnh cũng buồn theo.
⇒ Tiểu kết.
Nội dung: Miêu tả nỗi buồn, nỗi đau, nỗi nhớ nhung của người chinh phụ, ẩn chứa sau đó là niềm cảm thông, trân trọng của tác giả đối với số phận, phẩm giá của người phụ nữ.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ hay siêu hay:
Sau khi chia tay, người chinh phụ trở về, tưởng tượng ra một chiến trường đầy hiểm nguy, chết chóc mà thương tiếc, lo lắng cho chồng. Một lần nữa cô tự hỏi tại sao những người yêu nhau phải chia ly? Tại sao tôi lại ở trong một tình huống cô đơn? Rất nhiều câu hỏi chưa được trả lời. Tâm trạng băn khoăn, day dứt đó được tác giả thể hiện sinh động bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí tinh tế. Có thể nói nỗi buồn và nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo trong bài thơ này.
Trong mười sáu câu thơ đầu, tác giả tập trung miêu tả hành động và tâm trạng của người chinh phụ:
Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen.
Ngoài rèm thước chẳng mách tin,
Trong rèm dường đã có đèn biết chăng ?
Đèn có biết dường bằng chẳng biết?
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi.
Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương!
Cô lặng lẽ bước trên hiên nhà vắng, gieo mỗi bước chân vào nỗi cô đơn ngập tràn tâm hồn. Nhịp thơ chậm rãi gợi cảm giác thời gian như đứng lại.
Giữa không gian vắng lặng, tiếng bước chân dường như lạc lõng, cô đơn trong lòng người. Nỗi nhớ da diết nặng trĩu bước chân kẻ chinh phục. Nàng trằn trọc mãi không ngồi yên được, hạ màn xuống rồi lại cuốn lên, sốt ruột chờ đợi một con chim báo tin vui, nhưng không có.
Cô khao khát có một ai đó để đồng cảm và chia sẻ những nỗi niềm của mình. Không gian im lặng, chỉ có ngọn đèn đối diện với cô. Lúc đầu cô nghĩ rằng ngọn đèn biết tình cảm của cô, nhưng sau đó lại nghĩ: Ngọn đèn biết mà không biết, vì nó là vật vô tri vô giác. Nhìn ngọn đèn còn năm ngọn nến, dầu đã cạn, bấc đã tàn, cô chợt nghĩ đến hoàn cảnh của mình mà lòng đau xót.
Hình ảnh người chinh phụ lặng lẽ gieo từng bước bên hiên vắng năm tiếng đồng hồ ngồi một mình bên ngọn đèn lồng không biết chia sẻ tâm tình cùng ai nói lên nỗi cô đơn tột cùng của người chinh phụ.
Tác giả miêu tả cảm giác cô đơn của kẻ chinh phụ trong tám câu thơ. Đó là cảm giác một mình mọi lúc, mọi nơi: ngày, đêm, ngoài phòng, trong phòng. Nỗi cô đơn tràn ngập không gian và kéo dài bất tận trong thời gian luôn ám ảnh cô.
Cảnh vật xung quanh không thể san sẻ mà ngược lại, nó cộng hưởng với nỗi niềm triền miên của kẻ chinh phụ, khiến nàng càng đau đớn, đáng thương hơn:
Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rũ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.
Tiếng gà trống gáy báo hiệu năm canh càng làm tăng thêm sự tĩnh mịch, tĩnh lặng. Những hàng cây đung đưa trong ánh sáng mờ ảo của buổi sớm mai gợi cảm giác buồn bã, hoang vắng. Trong không gian ấy, kẻ chinh phụ cảm thấy nhỏ bé và cô đơn biết bao!
Ở những khổ thơ sau, sự phẫn uất hiện rõ trong từng chữ, từng câu mặc dù tác giả không hề nhắc đến hai chữ chiến tranh:
Hương gượng đốt hồn đà mê mải,
Gương gượng soi lệ lại châu chan.
Sắt cầm gượng gảy ngón đàn,
Dày uyên kinh đứt, phím loan ngại chùng
Kẻ chinh phục cố gắng tìm cách thoát khỏi sự vướng mắc của cảm giác cô đơn khủng khiếp, nhưng vẫn không thể. Cô ấy cố gắng soi gương và chơi đàn để tự an ủi mình, nhưng cô ấy càng ngày càng chìm sâu vào nỗi tuyệt vọng. Chạm vào đâu cũng là chạm vào nỗi đau, chạm vào nỗi cô đơn. Khi buộc phải soi gương, cô không cầm được nước mắt vì nhớ đến mình và người chồng từng chung bóng, vì phải đối diện với hình ảnh ngày một phai nhạt của mình. Nàng định chơi phượng nhưng xúc động trước cảnh vợ chồng ly tán, đầy điềm gở: Đứt dây, chùng phím. Cuối cùng, kẻ chinh phục phải ra đi với trái tim cô đơn.
Sắt son, tình nghĩa, lễ nghĩa là những hình ảnh ước lệ tượng trưng cho tình yêu nam nữ, vợ chồng. Giờ vợ chồng xa nhau, mọi thứ trở nên vô nghĩa. Dường như người đi vào quan tài không dám động vào bất cứ thứ gì vì họ đang nhớ lại những ngày sum họp hạnh phúc trong quá khứ và báo trước sự chia ly của lứa đôi trong hiện tại. Tâm trạng cô quá bấp bênh, chơi vơi khiến cuộc sống đau khổ, bất an. Mong đợi trong sợ hãi và tuyệt vọng, nàng cũng biết gửi tình vào gió:
Lòng này gửi gió đông có tiện ?
Nghìn vàng xin gửi đến non Yên.
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Sau những dằn vặt của một bế tắc cao độ, người chinh phụ chợt nảy ra một ý nghĩ rất thi vị: nhờ gió xuân mà nàng gửi lòng cho chồng nơi chiến trường xa, đối mặt với cái chết để kiếm chút tiền. Chắc hẳn chàng cũng sống trong nỗi niềm nhớ nhung mái ấm gia đình với hình bóng thân thương của mẹ già, vợ trẻ và con thơ:
Non Yên dù chẳng tới miền,
Nhớ chàng thăm thẳm đường lên bằng trời.
Khoảng cách giữa hai đầu nỗi nhớ được tác giả so sánh với hình ảnh của vũ trụ vô biên: Nỗi nhớ người yêu sâu thẳm, nỗi nhớ đường về nơi người yêu, nỗi nhớ đường về trời. Bài thơ ngắn gọn về ý nghĩa và súc tích về hình thức. Cách bộc lộ trực tiếp tâm trạng cá nhân này cũng là một cái mới, ít thấy trong các văn bản trung đại của ta:
Trời thăm thẳm xa vời khôn thấu,
Nỗi nhớ chàng đau đáu nào xong.
Bằng bút pháp nghệ thuật điêu luyện, tác giả đã miêu tả những diễn biến phong phú, tinh tế trong cảm xúc của người chinh phụ. Khung cảnh cũng như tình huống được miêu tả rất phù hợp với diễn biến tâm trạng của nhân vật.
Thông qua tâm trạng đau buồn của người chinh phụ đang sống cô độc vì chồng phải tham gia vào những cuộc tranh giành quyền lực của vua chúa, tác giả đã đề cao hạnh phúc lứa đôi và thể hiện tinh thần phản kháng cho cuộc chiến vô nghĩa. Tác phẩm Chinh phụ ngâm đã toát lên được những tư tưởng chủ đạo trong văn học; có khi đó là tư tưởng đòi quyền sống, quyền hưởng hạnh phúc rất chính đáng của con người.
3. Bài phân tích Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ độc đáo nhất:
Đoạn trích “Chinh phụ ngâm khúc” của Đặng Trần Côn là một bài thơ hay, đáng ngâm ngợi, hơn hết đoạn trích còn để lại cho hậu thế một giá trị hiện thực sâu sắc. Đặc biệt là tâm trạng cô đơn của người chinh phụ trong 8 câu thơ đầu
Ở hai câu thơ đầu, Đặng Trần Côn miêu tả tâm trạng của kẻ chinh phạt, được miêu tả qua những hình ảnh động:
“Dạo hiên vắng thầm gieo từng bước,
Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen”
Tiếng than thở thê lương của người đàn bà khi chồng phải ra trận, đó là hành động “gieo dẫm từng bước” lặp đi lặp lại, “tức thời” thể hiện ý đồ hành động vật chất. Nhiệm vụ chính của tác giả là miêu tả tâm trạng cô đơn trống vắng, nỗi nhớ chồng chua xót của người chinh phụ. Trong cảnh tranh tối tranh sáng, bên hiên mệt mỏi với những tiếng “bước chân bước” lặp đi lặp lại như muốn nói lên nỗi nhớ nhung lặp đi lặp lại của người phụ nữ xa chồng. Hành động gieo bước như lòng nặng trĩu đợi ngày chồng về.
“Ngồi rèm thưa rủ thác đòi phen” mành cuốn lên xuống như vô thức thể hiện trạng thái tâm lý buồn chán. Cảm giác bất an, lo lắng cho chồng ra trận vừa là nỗi nhớ nhung, cảm xúc dồn nén khiến người chinh phụ càng thêm xót xa, mong chờ.
“Ngoài rèm thước chẳng mách tin”
Chờ đợi nhưng không có tin tức? Con chim “thước” là biểu tượng của điềm lành từ phương xa trở về. Tuy nhiên, không có dấu hiệu nào của kẻ chinh phục để tin rằng niềm khao khát đầy lo lắng, chờ đợi một tín hiệu dù chỉ là nhỏ nhoi nhưng sự vắng bóng của nó cũng làm cho nỗi buồn của kẻ chinh phụ càng nhân lên gấp bội. Nhưng trong cảnh buồn này, chỉ có ngọn đèn leo lét làm bạn với cô.
“Trong rèm dường đã có đèn biết chăng?”
Nỗi cô đơn tột cùng khiến kẻ chinh phụ phải thốt lên: “Trong màn có ánh đèn chăng? Liệu ngọn đèn có soi được lòng người đàn bà, soi được nỗi nhớ chồng, hai câu thơ tiếp theo càng thể hiện rõ hơn nỗi niềm của người thiếp:
“Đèn có biết dường bằng chẳng biết
Lòng thiếp riêng bi thiết mà thôi”
Việc tác giả sử dụng cụm từ “đèn biết chăng – đèn có biết” càng làm cho nỗi cô đơn của người phụ nữ càng kéo dài thêm. Hình ảnh ngọn đèn được sử dụng hai lần như thể đó là tâm sự của nhân vật trữ tình, ngọn đèn là vật vô tri, nó không hiểu được lòng người phụ nữ, nó chỉ có tác dụng giải tỏa tâm tư. trạng thái chỉ dành cho những người chinh phục phụ. Nhìn ngọn đèn heo hắt trong đêm tối càng làm cho lòng người thêm buồn, da diết. Ánh sáng ấm áp cho thấy sự đối lập của sự cô đơn và buồn bã
“Buồn rầu nói chẳng nên lời,
Hoa đèn kia với bóng người khá thương”
Câu thơ thứ tám kết thúc bằng hình ảnh ngọn đèn nên nỗi nhớ cứ vương vấn, dồn nén, đỏ rực như ngọn đèn bấc, rực rỡ như đóa hoa.
Trong đêm đen như mực, người chinh phụ chỉ còn biết trút bầu tâm sự bên ngọn đèn, in bóng mình lên tường cho vơi đi nỗi cô đơn nhớ chồng.
Tám câu thơ đầu trong đoạn trích “Tình cảnh lẻ loi của người chinh phụ” đã cho người đọc thấy tâm trạng của người chinh phụ cùng với nỗi cô đơn, lẻ loi của người phụ nữ phải xa chồng, tất cả đều do chiến tranh. Những hình ảnh đã làm cho đôi tân lang tân nương xa cách trong hoài niệm, những vần thơ đã nói lên nỗi niềm và nỗi cô đơn của người ở lại chờ tin người ra đi.
Kẻ chinh phụ chạnh lòng, chợt nhận ra trong ngọn đèn dầu kia phản chiếu trên vách thân phận mình, thân phận như một, nỗi buồn mượn ngọn đèn chia sẻ nhưng không thể toại nguyện. Hãy nhớ rằng, mong muốn là đồng bộ.
“Gà eo óc gáy sương năm trống,
Hòe phất phơ rủ bóng bốn bên.
Khắc giờ đằng đẵng như niên,
Mối sầu dằng dặc tựa miền biển xa.”
Không gian khi trời như sáng hơn, tĩnh lặng hơn cũng là không gian mà tâm trạng của kẻ cô đơn trở nên cô đơn, lẻ loi. Cảnh vật xung quanh cũng hấp dẫn, xốn xang, những con chữ lay lắt, rung rinh cho ta cảm giác người vui chưa bao giờ vui. Nỗi nhớ vốn dĩ vô hình, vô lượng, nay được định lượng bằng độ dài của tháng năm, bằng độ dài và rộng của dòng thời gian vĩnh hằng, càng trở nên cằn cỗi. Và giờ đây, nỗi nhớ đã trở thành một nỗi buồn xa xăm, nghĩa là nó không chỉ là cảm xúc đơn thuần mà còn mang trong mình những lo lắng, khắc khoải, sợ hãi về tương lai.
Những phím đàn gảy gợi cảm giác cô đơn, trống vắng trong tâm hồn và chất chứa bao nỗi sợ hãi về tương lai, về sự chia ly.
Với bút pháp trầm ngâm miêu tả cảnh ngụ ngôn đầy suy tư, tác giả đã khắc họa sinh động cảm giác cô đơn, khát khao của kẻ chinh phu, qua đó gián tiếp vạch trần tội ác của chế độ. Những cuộc chiến tranh phi nghĩa trong quá khứ đã để lại bao gia đình tan nát, đau thương.