Hướng dẫn viết bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Hai đứa trẻ? Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất? Giải thích giá trị nhân văn của tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất?
“Nếu như cảm hứng nhân bản nghiêng về đồng cảm với những khát vọng rất người của con người, cảm hứng nhân văn thiên về ngợi ca vẻ đẹp của của con người thì cảm hứng nhân đạo là cảm hứng bao trùm” (Hoài Thanh). Tác phẩm hai đứa trẻ đã thể hiện một cách sâu sắc tính nhân văn long thương yêu sót xa của của tác giả đối với những cuộc đời của những người nghèo khổ.
2. Hướng dẫn viết bài văn phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Hai đứa trẻ:
1.1. Mở bài:
– Thạch Lam: người mang sứ mệnh hoà giải giữa thơ ca và văn học, hiện thực và trữ tình. Tác phẩm của ông như 1 bài thơ trữ tình trầm buồn và luôn tràn ngập tình thương yêu con người.
– Hai đứa trẻ: tiêu biểu cho phong cách truyện ngắn Thạch Lam và có giá trị nhân văn cao.
1.2. Thân bài:
a/Giá trị nhân đạo của tác phẩm văn học nói chung:
Hạt nhân của chủ nghĩa nhân đạo là tình thương yêu con người. Cất tiếng nói cảm thông sâu sắc với các hoàn cảnh khó khăn của con người; Lên án, vạch trần những thế lực giẫm đạp nhân phẩm con người Phát hiện, khẳng định những giá trị, mơ ước và nguyện vọng của con người; Thể hiện lòng tự hào của con người
b/Giá trị nhân đạo của “Hai đứa trẻ”
Thể hiện lòng thương xót cho cs tối tăm, nghèo đói cùng số phận của con người:
Đặt tác phẩm trong bối cảnh ngày tàn – chợ tàn => sự nghèo nàn, thiếu thốn và tăm tối của cuộc sống người dân phố huyện.
Nhà văn luôn day dứt với một kiếp sống tàn lụi, héo rũ, tăm tối và nghèo đói mà không chỉ là thương xót bình thường:
Những đứa trẻ lượm ve chai Chị em Liên, An được đặt bên chiếc cọc tre chuẩn bị ngã, . .. Mẹ con chị Tí ngày mò cua bắt ốc tối bán nước mía. .. sống tạm bợ qua ngày. Vợ chồng bác phở Siêu với quán hàng ế ẩm, lũ trẻ con ngồi trên chiếu cỏ Cụ Thi điên – người tàn tạ nhất giữa bao kiếp người già ở phố huyện. => Cs quẩn quanh, hôi hám, tối tăm, mệt mỏi và không có tương lai. Cái mắt thương cảm của Liên với những đứa trẻ lượm rác và nỗi xót xa về 1 kiếp sống vô cảm trước cuộc đời [cụ Thi điên] . .. cũng chính là tình thương yêu con người của nhà văn.
* Trong tác phẩm, Thạch Lam đã lên tiếng cảnh báo Xh: những con người bé nhỏ dễ dàng bị quên lãng và vùi lấp bởi nghèo đói.
*Khẳng định, tôn vinh đức tính cao đẹp cùng mơ ước chân chính của con người: Liên tuy là một cô bé rất nhỏ tuổi nhưng có tấm lòng nhân ái và luôn thương xót đến các hoàn cảnh xung quanh mình Dù trong hoàn cảnh tối tăm, cuộc sống gò bó nhưng Liên luôn không ngừng ước mơ đến một tương lai tươi sáng hơn, hạnh phúc hơn cuộc sống hiện tại em đang có: đêm nào cũng nằm đợi đoàn tàu hoả đi ngang.
* Điểm mới của Thạch Lam: Thức tỉnh ý thức cá nhân trong từng con người. Khẳng định cho dù ở địa vị, thân phận nào, hoàn cảnh nào, con người cũng xứng đáng với hạnh phúc và phải sống 1 cuộc đời có ý nghĩa.
3. Kết luận:
Khẳng định tài năng và vẻ đẹp trí tuệ, nhân cách Việt Nam
3. Phân tích giá trị nhân đạo trong tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất:
“Hai đứa trẻ” là câu chuyện của một ngày thường giống mọi ngày tháng khác ở một phố huyện. Nhà văn chọn bối cảnh là một ngày chợ phiên. Và thời điểm khởi đầu truyện là khi chợ phiên vừa kết thúc. nhiều tình tiết được kể lại theo khoảng thời gian này. Liên và An dọn đồ rồi cùng nhau chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống của chị em Liên và một số người dân nơi phố huyện như gia đình bác xẩm, mẹ con chị Tí hay bác phở Siêu đều không có nhiều khác biệt. Tất cả đều bàng bạc, tĩnh lặng và chầm chậm. Chuyện chợ tàn, chuyện đợi chờ chuyến tàu đêm ngang qua với một chút hy vọng được gặp lại trong một khoảnh khắc cực ngắn ngủi thứ ánh sáng lấp lánh trên mỗi toa tàu, ký ức về những ngày còn sống ở Hà Nội của hai đứa trẻ và cách suy nghĩ của cô bé Liên là các chi tiết chính của câu chuyện. Một câu chuyện dung dị, gần gũi, không màu mè và một lối kể chuyện như thể tâm sự thì thầm với bản thân chính là những nét đặc trưng trong phong cách kể truyện của Thạch Lam ở Hai đứa trẻ.
Trong “Hai đứa trẻ”, nhà văn rất chú ý vào miêu tả diễn biến tâm lý nhân vật. Chính vì vậy mới gọi Hai đứa trẻ là thể loại truyện ngắn lãng mạn. Nhà văn chú ý miêu tả nội tâm của cô bé Liên. Cảnh vật cũng được quan sát qua đôi mắt của Liên. Là nhân vật trung tâm của câu chuyện nên các hành động của Liên không được chú trọng miêu tả. Câu chuyện như một dòng tâm trạng của nhân vật, sau khi quan sát cảnh chiều cho đến lúc chuyến tàu đêm đi ngang.
Có thể nói nhân vật Liên là dạng nhân vật trữ tình của truyện ngắn. Qua sự tiếp xúc của Liên với thiên nhiên và cuộc sống chung quanh, nhà văn thể hiện một nỗi buồn da diết và đau đớn về thân phận mình. Nỗi đau của cô bé Liên cứ tăng tiến dần theo cái chậm lại của đêm. Khi chợ vãn và khi thấy cảnh chiều về, một buổi chiều êm như nhung của phố huyện, lòng Liên man mác buồn mà không biết tại sao. Khi bóng đêm bao phủ phố huyện, “một đêm mùa hạ êm như nhung”, thì còn đáng sợ hơn nữa. Cuộc sống thật tẻ nhạt và không hứa hẹn một điều gì thêm nữa. Nỗi đau của Liên không được thể hiện bằng lời nói mà lại thể hiện ở đôi mắt: “trong mắt chị bóng tối đang đầy lên”, với sự chờ đợi chuyến tàu đêm. Cuộc sống nơi phố huyện nghèo khó ấy quá đơn điệu, ngày hôm đó là hình ảnh lặp lại y nguyên ngày hôm trước: chị Tí vẫn dọn dẹp hàng nước mà không nói gì thêm, vợ chồng bác xẩm loay hoay với cây đàn bầu cũ kỹ, người nhà thầy thừa đi mời người đánh nhạc. .. người buổi chợ cuối ngày cũng tiêu điều xơ xác và hàng họ bán không được là mấy. Cuộc sống tối tăm và u ám, ảm đạm và lạnh lẽo. Sống giữa cảnh khốn cùng đó, nhiều người như chị em Liên đã có được một cứu cánh tinh thần. Họ đã nhiều đêm miệt mài ngồi chờ đợi đoàn tàu đi qua với niềm hy vọng rất nhỏ nhoi. Liên và An háo hức chờ đợi lên tàu mong được thấy lại một chút ánh sáng của cái ngày mình còn sống no đủ. Những người bán hàng chờ đợi khách lên xuống tàu mặc dù họ vẫn nghĩ không thể nào có chỗ ngồi ở cái nhà ga này. Họ đều chờ đợi và khi chuyến tàu đi đến là một ngày đã khép lại.
Chuyến tàu là nơi chứa đựng những ước vọng mỗi đêm của Liên bởi nó đem cho phố huyện một luồng ánh sáng mới nhưng cũng chỉ đủ giúp họ tạm bước qua được cái tĩnh lặng và buồn của đêm. Đó là thời điểm vui nhất của chị em Liên và chuyên tàu là nguồn ánh sáng tinh thần quý giá giúp chị hồi tưởng về từng ngày đã qua. Chuyến tàu mang đến một chút sôi nổi trong giây lát nhưng cũng đủ để sáng dậy sự u ám và tĩnh lặng của đêm phố huyện.
Từ diễn biến tâm lý của Liên, nhà văn đã thể hiện rất sâu sắc tấn bi kịch cuộc đời của bao thân phận con người. Những kiếp người vô danh nơi phố huyện nhỏ bé ấy cũng dễ dàng bị xã hội quên lãng. Tâm trạng của Liên cũng là tâm trạng chung của nhiều người đang ngày ngày sống giữa vòng vây của bao số phận nghèo khó, bất hạnh. Nhà văn đã thể hiện một niềm đồng cảm sâu sắc cùng tình yêu thương cho nhiều người không may mắn ấy.
Giá trị hiện thực, tính nhân văn cùng vẻ đẹp thẩm mỹ của tác phẩm cũng được khẳng định qua cách miêu tả và tạo hình chi tiết của tác giả. Chọn các chi tiết có tính hiện thực cao với thủ pháp nghệ thuật đối nghịch, tương phản, nhà văn đã khắc hoạ thành công cảnh chợ và lối sinh hoạt đơn điệu, buồn tẻ của người dân nơi phố huyện nghèo thời kì trước Cách mạng.
Miêu tả cuộc sống khó khăn, lạc hậu, tác giả không tả nhà cửa, cửa hàng hoặc cảnh kinh doanh, buôn bán mà lựa chọn tả cảnh chợ tàn với hình ảnh “những đứa bé nhà nghèo ở gần chợ đứng lết trên mặt đất đi lại bình thường. Chúng nhặt nhạnh cây nứa, ống gỗ, hoặc bất kì thứ gì còn sử dụng được của người bán hàng để lại. Nhưng chắc rằng chúng khó tìm thấy đâu vì những thứ bị vứt bỏ ở chợ chứng tỏ đây là miền quê chẳng giàu có gì. Cảnh chợ tàn lúc nào cũng gợi nhớ và làm ám ảnh thêm với cảnh một phiên chợ chiều nghèo khó.
Cùng với từng chi tiết nhỏ bé thế nhưng, cách tả của Thạch Lam làm khiến người đọc cảm thấy rất sâu sắc. Khi mô tả cảnh nghèo khổ, Ngô Tất Tố để chị Dậu phải bán chó, bán con và có lúc phải bán cả; Nguyễn Công Hoan để vợ chồng anh Pha phải lâm vào bước đường cùng; Nam Cao với Chí Phèo, để nhà văn Hộ phải đánh mất đi nhân cách của mình. Sự nghèo đói huỷ hoại cả thể xác và tâm hồn con người. Thạch Lam lại khác, nhẹ nhàng nhưng sâu sắc, nhà văn lãng mạn này để cho cuộc sống tự nó bộc lộ còn bản chất xã hội tự nó thể hiện ra mà không phản ánh đúng bộ mặt thật của hiện thực. Cái hay khi chọn lựa chi tiết của Thạch Lam là đây. Chỉ với chi tiết mới tái hiện được toàn bộ khuôn mặt hiện thực.
Nghệ thuật sử dụng chi tiết cũng được nhấn mạnh khi mô tả cảnh ban đêm với sự tương phản rõ rệt của ánh sáng và bóng tối. Nhà văn đã dùng ánh sáng khi mô tả đêm tối. Ánh sáng cây đèn dầu ở hàng nước chị Tí và ở quán ăn của bác phở Siêu làm bộc lộ sự bao la của bóng tối ở vùng quê. Nghệ thuật tương phản làm người xem thấy rõ ràng được sự tĩnh lặng của bóng tối. Còn ánh sáng con tàu vụt đi trong thoáng chốc với vẻ ồn ã và náo nhiệt của nó làm gia tăng hơn sự tĩnh lặng, tối tăm và tẻ nhạt nơi phố huyện nghèo khó. còn ánh sáng chiếc đèn dầu của chị Tí chập chờn len lỏi vào giấc ngủ của Liên – hình ảnh cuối câu chuyện – đã mang đến một niềm tiếc nuối, một dư âm cho tác giả.
Nhẹ Nhàng và tinh tế, Thạch Lam đã vẽ nên một bức tranh đầy sức gợi của một phố huyện nghèo. Qua câu chuyện của Liên, đời sống của hai chị em và người dân nơi phố huyện nghèo được nhà văn không những phản ánh thực tế mà còn bộc lộ một tư tưởng nhân văn có giá trị dài lâu. Trước hết, tác phẩm là tấm ảnh chân thật của cuộc sống phố huyện nghèo khó với bao phận người nhỏ bé và tội tình (hai đứa trẻ, chị bán hàng nước ban ngày đi bắt cua cào tép, những người hát xẩm, . .) . không có gì bảo đảm về tương lai của họ. Phía trước họ càng nhìn càng xa, ánh sáng của hy vọng nếu có cũng không thể xuất hiện ở ngay nơi họ ngồi. Hiện thực lại nghèo khó, không gì chắc chắn cho tương lai, những con người đó sẽ tồn tại bao lâu. Họ gửi gắm mơ ước vào chuyến tàu đêm với một luồng ánh sáng phù hoa tan đi thật nhanh chóng.
Qua việc miêu tả sự kiên nhẫn cả đêm đợi tàu đến xong mới xếp hàng và mới đi ngủ của những con người đó, nhà văn muốn thể hiện một tư tưởng nhân văn. Đó là thể hiện tinh thần bất diệt của hi vọng và mơ ước. Cuộc sống dù cho nghèo đói, tối tăm và bế tắc đến mấy cũng không thể nào dập tắt đi ước mơ và hy vọng của con người. Tác phẩm đã thể hiện tình yêu thương lớn lao cùng lòng trắc ẩn của nhà văn đến các số phận nhỏ nhoi trong cuộc sống. Một cốt truyện nhẹ nhàng nhưng giá trị thực sâu sắc. Với một con đường rất riêng biệt, ngòi bút của Thạch Lam đã đánh thức lòng trắc ẩn trong tâm hồn từng con người và làm phát sinh ở đó nhiều giá trị nhân văn cao cả.
4. Giải thích giá trị nhân văn của tác phẩm Hai đứa trẻ hay nhất:
Thạch Lam là một cây bút truyện ngắn tài hoa xuất sắc của giai đoạn văn học 1930 -1945. Những truyện ngắn của Thạch Lam được coi như những vần thơ trữ tình đượm buồn bởi vừa giàu chất lãng mạn lại thể hiện tư duy hiện thực phong phú. – Hai đứa trẻ (đăng trong tập Nắng trong vườn) là một truyện ngắn đặc sắc của Thạch Lam, không chỉ đại diện cho ngòi bút của nhà văn, đồng thời thể hiện giá trị tư tưởng phong phú và mới lạ.
Giá trị xã hội: là một trong các yếu tố quan trọng hình thành lên giá trị nội dung tư tưởng của tác phẩm, thể hiện thái độ của nhà văn đối với thực tế cuộc sống (sự chia sẻ, cảm thông, yêu thương, căm phẫn. ..) . Với Hai đứa trẻ, Thạch Lam đã cất lên tiếng nói nhân văn mới lạ và độc đáo của anh từ một bức tranh cuộc sống tẻ nhạt, đơn điệu ở các huyện nghèo.
Tác phẩm đưa người xem vào một bức tranh liên hoàn (từ lúc chiều hoàng hôn cho đến đêm khuya) để tái hiện cuộc sống tẻ nhạt, tăm tối nơi phố huyện nghèo khó. Nơi đó, hiện dần lên các hoạt động âm thầm, lặng lẽ của bao phận người nghèo đang có cuộc sống không hình ảnh. Đó là khung cảnh buổi chợ chiều đã tàn khô, xơ xác với hình ảnh những đứa trẻ con nhà nghèo lầm lũi kiếm ăn. Đó là mẹ con chị Tí bán quán ăn, cứ mở ra xong lại thu vào khi có khách. Đó gánh chè của bác Siêu – một thứ quà xa xỉ ở nơi này cũng đang vắng bóng. Đó là vợ chồng bác Xẩm có đứa con đang lăn trên đống đất bẩn thỉu bên lề đường. .
Nổi bật nhất trong tác phẩm là chị em cô bé Liên với cảnh đợi tàu. Ngày này sang ngày kia, cuộc sống của chị em Liên trôi đi một cách buồn tẻ ở tiệm tạp hoá với vài món đồ lặt vặt không bao giờ thay đổi. .. Bởi thế, việc đợi một chuyến tàu đêm – hoạt động rất nổi tiếng nơi này, giờ đây đã trở thành một nhu cầu không thể thiếu, thành một biểu tượng về niềm mong ước nhỏ nhoi được thay đổi cuộc sống (cảnh chờ tàu của chị em cô bé Liên được mô tả khá chi tiết: với nỗi ngóng đợi, tâm trạng háo hức khi đoàn tàu chạy tới rồi dừng, dòng hồi tưởng đến một Hà Nội xa xăm, một Hà Nội sáng rực vui vẻ và huyên náo khi đoàn tàu lướt đi. ..)
Thạch Lam thể hiện tấm lòng đồng cảm, thương xót cho các phận người nhỏ bé, bơ vơ ở phố huyện nghèo khó, nói rộng ra là của nhiều con người đang tồn tại trong xã hội cũ; xúc động bởi sự mong mỏi, khát khao cháy bỏng được thay đổi cuộc sống của những con người tưởng chừng như không còn được chạm vào niềm tin, ánh sáng và hạnh phúc.
Hai đứa trẻ thể hiện tư tưởng nhân đạo mới lạ, sâu sắc của Thạch Lam. Đặt trong bối cảnh xã hội lúc bấy giờ, tác phẩm không chỉ thể hiện sự quan tâm đặc biệt của nhà văn đối với các phận người bất hạnh mà còn có tác dụng khích lệ, động viên làm bừng dậy nhiều tâm hồn cô đơn, đang lụi tàn.
5. Nhận xét chung:
Những nét, bút tinh tế Thạch Lam đã dẫn dắt người đọc đến với phố huyện nghèo khó dưới không gian yên tĩnh của buổi chiều thu trong đôi mắt ráo hoảnh của Liên như một đứa trẻ mười bốn tuổi. Mạch kể của tác phẩm chậm rãi và dịu dàng đưa độc giả đến với từng ngõ ngách của phố huyện, câu chuyện bắt đầu từ tiếng trống thu vang vọng giữa không trung như một hồi chuông báo hiệu ngày hè đã qua, mở ra cuộc sống trong đêm ảm đạm. Ngoài ra tác phẩm đã truyền tải đến người đọc thật nhiều xúc cảm trân quý và khơi dậy trong lòng độc giả sự say mê sâu sắc với con chữ cùng những tín hiệu thẩm mỹ tuyệt vời. Thông qua tác phẩm hai đứa trẻ ta có thể thấy tấm lòng nhân đạo của tác giả đối với những con người khốn khổ nghèo đói với chất văn tinh tế nhẹ nhàng nghệ thuật tương phản sáng tối thể hiện sâu sắc một buổi chiều tối phố huyện nghèo.