Tác giả tác phẩm? Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ? Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ? Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ?
Một trong số những tác phẩm văn học có giá trị hiện thực cao đó là tác phẩm Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân. Mỗi nhân vật lại là một nét vẽ chân thực của nhà văn Kim Lân về đời sống thực tại. Chính vì lẽ đó, hôm nay chúng tôi muốn gửi đến bạn đọc những bài văn mẫu về phân tích hình ảnh nhân vật bà Cụ Tứ để giúp các em phục vụ cho ôn tập và có một kì thi hiệu quả.
1. Dàn ý phân tích hình ảnh bà cụ Tứ:
Mở bài: Giới thiệu về tác giả, tác phẩm.
Thân bài:
Khái quát về bà cụ Tứ:
Là một người nông dân nghèo khổ, cũng là nạn nhân của nạn đói thảm hại năm 1945
Cuộc sống khổ cực, dáng đi “lọm khọm”, “vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán”.
Diễn biến tâm trạng:
Cái bất ngờ khi thấy con trai nóng nảy, cái “bất ngờ” lo lắng vì không hiểu chuyện gì đang xảy ra.
Nhìn thấy người phụ nữ trong nhà, bà lại càng ngạc nhiên hơn và thắc mắc “lạ…ai vậy?”
Sau khi nghe Tràng giải thích, bà “câm nín”:
Sáng hôm sau:
Gương mặt bà “đìu hiu hiu hắt”, hôm nay “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “nhẹ người lên”: bà vui vẻ, phấn khởi.
Bữa cơm thật thảm hại nhưng cả nhà đều ăn ngon lành.
Bà lão nói “có hỷ sự, vạn sự mừng lai”: sự lạc quan, yêu đời.
Nghệ thuật khắc họa nhân vật.
Kết bài: Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Bài mẫu 1 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Truyện ngắn “Vợ nhặt” của Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt, bức bối trước nạn đói khủng khiếp năm 1945. Kim Lân không miêu tả hiện thực tàn khốc của nạn đói lúc bấy giờ mà tập trung thể hiện vẻ đẹp của nạn đói, vẻ đẹp tinh thần ẩn sau vẻ ngoài đói khát của người nghèo. Trong cảnh ấy, họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hy vọng vào một tương lai tươi sáng. Trong “Vợ Nhặt” xuất hiện ba nhân vật: Tràng, cụ Tứ và người vợ nhặt, bà cụ Tứ – mẹ Tràng càng gây được thiện cảm với người đọc bởi tấm lòng nhân hậu, vị tha, đức hi sinh cao cả của bà.
Kim Lân để bà cụ Tứ xuất hiện giữa tác phẩm nhưng bà cụ Tứ lại trở thành nhân vật trung tâm của tác phẩm. Khi miêu tả bà cụ Tứ, ngòi bút Kim Lân chân thực đến từng hình ảnh, chi tiết. Bà cụ Tứ hiện lên trong vai một người mẹ có số phận bất hạnh vì chồng mất sớm, đứa con gái út cũng mất sớm, chỉ còn lại một người con trai làm nghề đánh xe bò. Vì vậy, hai mẹ con sống trong căn nhà xập xệ, chui rúc trong xóm và người con trai có nguy cơ mất vợ. Nỗi đau khổ, tủi nhục của cuộc đời đè nặng lên thân phận tạo nên tính cách của bà. Chân dung bà cụ Tứ được tác giả dần dần giới thiệu. Bắt đầu là “tiếng người hắng giọng ho sặc sụa”, rồi một bà lão có dáng vẻ “cười tươi” từ đầu ngõ “vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong miệng”. Tính từ “lom khom” rất dân dã và giàu chất tạo hình giúp người đọc hình dung ra dáng người gầy guộc, cong queo của người mẹ già vì gánh nặng cuộc đời, cảnh nghèo khó. Và chính sự nghèo khó cũng khiến gương mặt bà hiện lên một vẻ “u ám”. Qua việc miêu tả ngoại hình của bà cụ Tứ, ta thấy được đó là một người mẹ có cuộc đời bất hạnh, khổ cực.
Chiều hôm trước, bà cụ Tứ đang trong tâm trạng ngạc nhiên khi từ ngoài ngõ bước vào, thấy Tràng có thái độ khác thường “vui như con nít” và “chạy ra đón con”, bà cụ theo con trai vào trong nhà với tâm trạng “ngỡ ngàng”. Đó là biểu hiện của sự lo lắng, hồi hộp vì không biết điều gì đang chờ đợi mình ở nhà. Khi ra đến giữa sân, nhìn thấy người đàn bà, bà lão ngạc nhiên “ngừng lại”. Điều đó cho thấy sự ngạc nhiên trong bà ngày càng nhiều, ngạc nhiên sau lớn hơn ngạc nhiên trước. Tác giả đã sử dụng ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả nỗi băn khoăn, thắc mắc của bà lão lúc này. Một loạt câu hỏi hiện lên trong đầu bà già: “quái, sao lại có một người phụ nữ trong đó? Người phụ nữ nào đang đứng đầu giường con trai mình? Tại sao lại chào tôi bằng u? Ai vậy? ” Hàng loạt câu hỏi là sự lục lọi trong đầu bà để tìm ra câu trả lời thỏa đáng. Nhưng bà lão vẫn chưa tìm ra câu trả lời nên đổ lỗi cho đôi mắt của mình, không tin vào mắt mình “bà lão chớp chớp mắt cho đỡ xốn xang vì bỗng bà lão nghĩ con mắt của mình bị lác”. Bà cụ “lại nhìn kỹ người đàn bà, vẫn không nhận ra ai” nên quay sang hỏi người con với sự ngạc nhiên khó hiểu của chính mình. Khi người phụ nữ nhìn thấy bà lão về nhà và chào “u”, ngay cả lời chào đó – một lời chào thân mật cũng không thể làm cho bà hiểu được. Bà còn đang băn khoăn, thắc mắc rồi đoán già đoán non, lại thêm một câu hỏi: “Chào u?”. Mãi đến khi Tràng giới thiệu và giải thích “đây là nhà tôi” và “chúng tôi phải duyên phải số mà sống với nhau” thì bà lão mới bắt đầu hiểu ra. Khi hiểu ra, bà lão “cúi đầu im lặng”. Tư thế “lặng lẽ cúi đầu” của bà cụ Tứ chất chứa biết bao tâm tư, tình cảm, cảm xúc khó diễn tả thành lời. Dường như qua tư thế ấy, người đọc dần nhận ra nội tâm phong phú trong vẻ ngoài tưởng như già nua, đờ đẫn của bà. Ở bà, đồng thời xuất hiện cả con người lý trí và con người tình cảm. Người có lý không chỉ giúp bà hiểu con trai mình đã có gia đình mà nó còn giúp bà hiểu những khó khăn, nghèo khó mà Tràng phải chịu đựng; để rồi giúp bà hiểu ra rằng, chính số phận bất hạnh đã khiến các con chị phải sống trong hoàn cảnh trớ trêu như vậy. Còn người bà xúc động tỏ ra rất “cảm thương cho số phận của con mình”. Lời than thở ấy, sự ngậm ngùi ấy vừa hướng vào bản thân bà, vừa hướng về con trai bà, vừa bộc lộ nỗi đau của chính bà, vừa mang đến tình thương cho con trai bà. Chính vì vậy mà biết bao cảm giác bà lão vừa đáng thương vừa nhân hậu!.
Cảm xúc của bà ngày càng dâng trào: “Ôi chao, người ta cưới vợ gả chồng cho con cái lúc nhà ăn nên làm ra còn mình thì…”. Đọc câu này ta có cảm giác như trái tim của người mẹ nghèo đang rung lên vì đau đớn, xót xa. Tình cảm của người mẹ bao hàm sự so sánh giữa người với mình và con cái trong hoàn cảnh dựng vợ gả chồng cho con. Sự so sánh ấy không chỉ làm nổi bật sự thiếu thốn, khó khăn trong gia đình mà dường như còn chứa đựng sự trách móc của bà đối với chính bản thân mình. Một nỗi hờn tủi cho chính mình! Đó cũng là biểu hiện của nỗi thống khổ trong lòng bà. Nhưng tất cả đều là biểu hiện của tấm lòng nhân ái.
Nỗi xót xa còn thể hiện ở sự quan tâm của bà đối với các con: “Không biết chúng nó có nuôi nhau được qua cơn đói này không?” Vừa tủi thân, vừa thương con khiến “hai dòng nước mắt lưng tròng”. Bà lão kìm nén cảm xúc, cố nuốt những giọt nước mắt mặn đắng vào trái tim vốn đã chất chứa bao đau khổ của một kiếp lầm than. Nước mắt vẫn âm thầm chảy ra từ đôi mắt đục ngầu của người mẹ già tội nghiệp. Đoạn văn không chỉ là những câu trần thuật đơn thuần mà mỗi câu đều chan chứa niềm ngậm ngùi của tác giả.
Diễn biến của câu chuyện đã đến hồi cao trào. Sự sắc sảo, tinh tế trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật của Kim Lân được thể hiện khá đậm nét. Cả ba nhân vật đều có chung tâm trạng căng thẳng. Tràng và “vợ nhặt” chờ mẹ già lên tiếng. Khi bà cụ Tứ hiểu ra chuyện, nỗi xót xa của bà lão “khẽ thở dài” vì bà muốn giấu đi nỗi buồn lo của riêng mình. Bà lão tạm dứt ra khỏi tâm trạng suy tư thường trực để nhìn người vợ nhặt, để “ngắm người đàn bà” khi nàng “cúi mặt xuống, tay sờ soạng vạt áo rách”. Bà cụ không chỉ nhìn con dâu bằng con mắt mà còn hướng về con dâu bằng cả tấm lòng. Vì vậy, bà cụ nghĩ: “Người ta mà gặp bước gian nan đói khổ này thì chỉ đến con mình thôi, con mình mới có vợ…”. Trong suy nghĩ đó của người mẹ hướng tới hai đối tượng “người khác” và “con mình”. “Người” trở thành ân nhân và “con tôi” là kẻ mang ơn. Điều đó đã chứng tỏ rằng người mẹ già không hề coi thường người vợ nhặt mà còn cảm thông, kính trọng dù cô là một người phụ nữ rách rưới, nghèo khó, không gia đình. Từ tấm lòng cho người vợ nhặt, bà cụ nghĩ đến bổn phận làm mẹ, tiếp tục dằn vặt “không thể chăm sóc con…”. Bà tin tưởng và chờ đợi số phận tùy duyên: “May sao qua được đoạn này, con trai cũng có vợ, yên bề gia thất, chẳng may bà chết thì cũng yên lòng . Tình cảnh thật bi đát! Dù lo lắng, dù đau buồn nhưng dường như người mẹ đã chấp nhận “cô dâu mới” từ lúc nào không hay. Sau khi “khẽ hắng giọng”, bà lão “nhẹ nhàng” nói với “cô dâu mới”: “Được, được, thế thì phải duyên với nhau, mẹ cũng vui lòng…”. Mẹ vui vẻ nhận lời tự nguyện. Hai chữ “mừng lòng” mà bà cụ nói với các con thật giản dị và chân thành biết bao! Những lời nói giản dị ấy đã đem lại niềm xúc động và an tâm cho người vợ nhặt nghèo. Việc bà cụ Tứ nhận lời khiến ông Tràng “thở phào nhẹ nhõm, lồng ngực nhẹ tênh”.
Người mẹ nghèo nhân hậu thấu hiểu hoàn cảnh và tâm trạng của người phụ nữ xa lạ bỗng chốc trở thành “con dâu” của bà. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm ở đoạn văn này một lần nữa miêu tả tinh tế tâm trạng phức tạp của nhân vật bà cụ Tứ. Cảm xúc ấy như những đợt sóng cuộn lên trong lòng mẹ khiến người đọc không khỏi bùi ngùi. Ôi chao, tội nghiệp mẹ!. Tình yêu thương con và tinh thần trách nhiệm của một người mẹ khiến người mẹ lo lắng về việc cưới con bằng tất cả sức lực của mình.
Khi đón “nàng dâu mới”, bà Tứ tiếp tục tâm sự, từ tốn dặn dò các con: “Nhà mình nghèo, vợ chồng mày bảo nhau làm ăn, rồi may ra ông trời cho. Biết sao được, ai giàu ba đời, ai khó ba đời, trong tâm sự của bà, có một lời thú nhận rất thật thà rằng “nhà ta nghèo”, từ lẽ đó, người mẹ đã nhắc nhở các con rằng, “Vợ chồng bảo nhau làm ăn”, dù nhắc nhở như vậy nhưng bà cũng động viên các con bằng câu nói rất quen thuộc trong dân gian: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời?”. thể hiện sự lạc quan của người mẹ nghèo trong hoàn cảnh khó khăn, hơn thế nữa bà lão còn truyền cho người con niềm tin vào tương lai, là nguồn động viên quý giá giúp người con vượt qua giai đoạn khó khăn này.
Tâm trạng bà cụ Tứ vừa buồn, vừa vui, vừa lo. Trong lòng bà lão luôn bị ám ảnh bởi cái nghèo, cái khổ khiến bà lão “ngước mắt ra bóng tối che mắt bà. Xa xa, dòng sông trắng uốn khúc trên cánh đồng tối. Những ngôi nhà người chết trong gió cháy. Bà cụ thở dài thườn thượt.” Trong lòng bà cũng bị ám ảnh bởi nỗi bất hạnh về thân phận của mình. Vì vậy, trong kí ức của bà cụ “nghĩ đến ông già, nghĩ đến đứa con gái út. Bà lão nghĩ đến cuộc đời dài dằng dặc của mình”. Tất cả hiện lên như một cuốn phim dài bất tận, như một tấn bi kịch của cuộc đời bà. Từ những cảm xúc ấy, nỗi băn khoăn lại một lần nữa xuất hiện trong bà, bà lo lắng cho những đứa con của mình: “Vợ chồng chúng nó lấy nhau rồi liệu cuộc sống của chúng có khá hơn bố mẹ trước đây không?…”. Dù lo lắng nhưng bà vẫn cố gắng lại gần con dâu với lời mời thân mật: “Ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây kẻo mỏi chân”. Lời mời đó đã rút ngắn khoảng cách giữa mẹ và “con dâu”, đồng thời cũng an ủi được ít nhiều cho “vợ nhặt”. Lời mời của mẹ thể hiện sự yêu mến và chấp nhận “cô dâu mới” của mẹ. Nổi bật nhất vẫn là tấm lòng thương xót của bà cụ Tứ với cô con dâu mới: “Bà lão nhìn người mà lòng đầy thương hại. Nàng nay đã là con dâu trong nhà”. Bà cụ tiếp tục tâm sự với người vợ nhặt bằng những lời lẽ thân mật: “Làm được vài mâm cỗ cũng đúng, nhưng nhà nghèo. Năm nay, nhà đói. Bây giờ chúng nó kết hôn, bà cũng thấy đau xót … “. Qua lời bà lão chứng tỏ bà là người hiểu đời, hiểu người. Bà hiểu rằng cưới vợ cho con cái thì phải có vài mâm cỗ trước để cúng tổ tiên, ông bà, sau đó mới mời làng xóm. Bà cũng hiểu lòng người, hiểu lòng bao dung của mọi người, họ sẽ thông cảm cho sự nghèo khó của Bà mà không chấp nhặt, tính toán. Bà cũng hiểu đạo lý tạo nên sự gắn bó giữa vợ chồng chính là sự hòa thuận. Đến đây, bà cụ “không nói được nữa, nước mắt cứ chảy dài”. Những giọt nước mắt của bà Tứ chan chứa tình thương con. Những giọt nước mắt của mẹ là biểu hiện tấm lòng bao dung, nhân hậu của người mẹ nghèo. Nó quý giá hơn rất nhiều so với những thứ tầm thường mà mẹ dành cho con.
Tâm trạng của Tứ chiều hôm trước là sự lo lắng, vui, buồn lẫn lộn, nhưng sáng hôm sau, tâm trạng của bà luôn ngập tràn niềm vui. Niềm vui ấy được thể hiện trên khuôn mặt người mẹ: “mẹ nhẹ nhõm, tươi tắn khác hẳn mọi khi, khuôn mặt ủ rũ, ủ rũ của mẹ bừng sáng lên”. Niềm vui còn thể hiện qua hành động: “ quét nhà” của bà với suy nghĩ “sắp xếp nhà cửa cho khang trang, ngăn nắp thì cuộc sống của họ mới có thể khác đi, việc làm ăn mới có cơ hội khấm khá hơn”. Bà không thể không hạnh phúc khi con trai mình kết hôn. Bà cũng trút bỏ được nỗi băn khoăn canh cánh trong lòng từ lâu, bữa cơm đầu tiên của ba mẹ con, dù chỉ là “rau chuối thái, đĩa muối ăn với cháo” nhưng “tất cả đều nói chuyện vui vẻ. Câu chuyện người mẹ già kể với con trong bữa cơm đầu tiên sau ngày cưới, tuy vẫn là chuyện làm ăn, gia đình nhưng trong câu chuyện của bà không còn quá khứ mà chỉ còn tương lai. Câu chuyện của bà thật đơn giản! Đó là chuyện mua gà, nuôi gà, có một đàn gà con mà mẹ nói với Tràng: “Tràng ơi, có tiền thì mua một cặp gà, mẹ thấy đầu bếp làm chuồng gà ở đâu tiện lắm. , ngoảnh đi ngoảnh lại, có một đàn gà con ngay đó…”. Chính câu chuyện của mẹ đã khiến cuộc sống vui vẻ và ấm áp hơn rất nhiều. Tuy nhiên, bữa ăn ngày càng trở nên nghèo nàn khiến “chuyện bữa cơm vui vẻ chợt tắt. Nồi cháo loãng, mỗi người được hai bát lưng”. Tuy nhiên, bà lão “ vào bếp bưng ra một nồi khói bốc nghi ngút” và bà lão tấm tắc khen “chè đây, ngon quá”. Bà cụ dường như đang cố xua đi bầu không khí u ám, cố quên đi hoàn cảnh khốn cùng bằng một thái độ vui vẻ. Bên trong vẻ tươi tắn ấy là một trái tim người mẹ đang thổn thức lo âu. Bà lão “chiêu đãi” cô dâu mới món đặc sản “cháo” nấu bằng cám tấm tắc khen “ngon ” và so sánh “xóm mình còn không có cám mà ăn”. Qua đó, bà đã động viên các con, để các con có thêm sức mạnh tinh thần vượt qua khó khăn, vất vả này. Chi tiết này khiến chúng tôi cũng phải rơi nước mắt trước tình cảm đáng quý và sự chân thành của bà. Kết thúc đoạn văn là giọt nước mắt của người mẹ, còn bà lão thì “mau ngoảnh mặt đi. Bà lão không dám để giọt nước mắt rơi. Bà cố gắng xua đi nỗi ám ảnh đen tối đáng sợ của thực tại và truyền niềm tin, niềm vui cho các con. Trong tấm thân gầy guộc, héo mòn vì đói khát ấy vẫn bừng lên một ý chí sống mãnh liệt.
Qua truyện ngắn “Vợ nhặt”, nhà văn Kim Lân đã xây dựng một hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nghèo hết lòng vì con. Ngòi bút tinh tế, sắc sảo của tác giả đi sâu phân tích diễn biến tâm lý phức tạp của bà cụ Tứ và thể hiện điều đó qua từng lời nói, ánh mắt, trong suy nghĩ, hành động và cả sự trăn trở cho tương lai của các con. Phải là một người có đời sống phong phú, hiểu và thông cảm, yêu thương và tôn trọng những người nghèo khổ thì Kim Lân mới có thể diễn tả chân thật và tài tình đến thế.
3. Bài mẫu 2 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Kim Lân là một trong những nhà văn chuyên viết về người nông dân. Những câu chuyện của ông luôn đơn giản và thẳng thắn như hình ảnh của chính anh. “Vợ nhặt” là tác phẩm của ông lấy bối cảnh những năm đói kém 1945, câu chuyện đầy thương cảm về những kiếp người nghèo khổ đùm bọc nhau trong hoàn cảnh “người chết như ngả rạ”. Và sáng ngời trong cảnh đói khổ ấy là tình người dành cho nhau. Hình ảnh bà cụ Tứ – người mẹ già nghèo khổ với những cảm xúc, tâm trạng phức tạp khi chứng kiến đứa con trai độc nhất “nhặt vợ” đã để lại nhiều ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc.
Nhân vật chính trong tác phẩm Vợ Nhặt là anh chàng tên Tràng, sống ở xóm trọ. Giữa những năm tháng đói khát, anh kéo xe thồ thuê kiếm sống và một lần, anh bắt gặp một người phụ nữ nghèo ngồi bên vệ đường để “chờ nhặt hột rơi vãi”, chị đẩy cùng anh xe bò kéo sau vài câu đùa vu vơ. Lần thứ hai anh gặp lại cô là khi cô đói đến mức “gầy quá” và anh mời cô ăn bánh. Chỉ với bốn bát bánh, cô chấp nhận theo anh về làm vợ.
Có thể nói, tình huống truyện mà Kim Lân dựng lên là vô cùng độc đáo và “có một không hai” trong nền văn học Việt Nam. Qua đó, ta chợt chạnh lòng trước sự mong manh, nghèo khó của con người trong nạn đói, nhưng hơn hết là niềm xúc động mãnh liệt trước tình yêu thương, đùm bọc lẫn nhau của những người dân nghèo giữa đói khát. Trong bức tranh ấm áp tình người ta còn bắt gặp hình ảnh người mẹ già với tấm lòng hết lòng yêu thương con và người, đó là bà cụ Tứ.
Bà cụ Tứ – mẹ Tràng hiện lên chỉ qua vài dòng giới thiệu ngắn gọn của tác giả. Đó là một bà già, nghèo khó, cư dân trong xóm. Dáng đi của bà rất “luộm thuộm”, chậm chạp và “vừa đi vừa lẩm bẩm điều gì đó trong miệng”. Bà xuất hiện với dáng vẻ của một người phụ nữ đầy vất vả và đau khổ. Bà có một cậu con trai nhưng chưa bao giờ nghĩ đến chuyện lấy anh, vì nhà nghèo quá, đói quá, ai nỡ gả vào một ngôi nhà chỉ là “nhà hoang đứng co ro” để ăn tiêu không đủ? Vậy mà giữa lúc đói kém khốc liệt nhất, Tràng lại đem về một “người vợ”, người phụ nữ mà Tràng “nhặt được” khi đi làm thuê. Ở cái thời buổi đến cái thân cũng không lo nổi như thế này, khi Tràng lấy vợ, bà cụ sẽ phản ứng ra sao? Bà sẽ chấp nhận làm dâu “chưa cưới” hay trách con trai đã “qua mặt”, “lấy lại nợ đời”?
Khi thấy cậu con trai “dũng cảm” đón từ đầu ngõ, phản ứng đầu tiên của bà là bất ngờ. Một sự “bất ngờ” dâng lên trong lòng bà cụ, bà không hiểu sao hôm nay con trai mình lại có thái độ lạ lùng như vậy! Và sự ngạc nhiên của bà càng tột độ khi nhìn vào trong nhà, thấy một người phụ nữ khác đang “đứng đầu giường con bà” và “chào bà bằng u”. Bà lão “ngừng lại”, vẻ lo lắng dường như làm đôi mắt già “nhòe”, bà “chớp” mắt, cố “nhìn kỹ” người đàn bà. Sự ngạc nhiên và bối rối bao trùm lấy bà lão tội nghiệp, bà vô cùng ngạc nhiên, không hiểu chuyện gì cho đến khi con trai lên tiếng.
Khi con trai giải thích mọi chuyện, bà bỗng “cúi đầu im lặng”. Trong lòng mẹ là gì? Kim Lân đã khéo léo dẫn dắt tâm trạng của người mẹ già ấy, khéo léo để người đọc thấy được những đổi thay đang cuộn trào trong lòng người phụ nữ ấy. Bà cúi đầu im lặng, nhưng trong lòng chợt hiểu, “bà già hiểu rồi”. Bà hiểu rằng con trai bà giờ đã có gia đình, có người khác bầu bạn, nhưng nếu lấy vợ giữa lúc túng quẫn nhất của cuộc đời thì sao?
Có lẽ, người phụ nữ đáng thương ấy đã phải khóc nhiều lần trong đời, nhưng giọt nước mắt lần này lại khác. Đó là tình thương, là sự xót xa cho Tràng, từ “giọt nước mắt lưng tròng”. Giọt nước mắt ấy “vừa xót xa, vừa thương cho số phận đứa con của mẹ”. Tuy nhiên, bà cũng hiểu rằng nhà mình nghèo, con bà lại xấu xí, nay có bạn đồng hành, cô hạnh phúc biết bao! Cô vừa tiếc nhưng cũng vừa mừng cho con.
Mẹ càng thương con bao nhiêu thì mẹ càng thương chính mình bấy nhiêu. Bà thương tiếc cho số phận đáng thương của mình cả đời. “Ôi chao, người ta cưới gả con cái là khi trong nhà ăn nên làm ra, còn mình…” Sự im lặng trong dòng suy nghĩ của bà là sự tủi thân. Cả đời bà vất vả mà không làm được gì cho con, thấy thương con vì không lo được lấy chồng. Đến nay, khi các con đã có vợ, bà vừa mừng vừa buồn.
Thương con, thương mình, rồi lại “ngậm ngùi nhìn người phụ nữ ấy”, bà chợt thấy thương người phụ nữ này. Người đàn bà tội nghiệp đáng thương ấy đã phải đi đến “bước khó khăn, đói khổ này mới bám lấy con mình”. Bà thông cảm cho cô ấy, thông cảm cho sự bất đắc dĩ của cô ấy, trái tim Bà ấy “đầy thương hại” cho người phụ nữ trước mặt.
Chỉ thế thôi nhưng người đọc có thể thấy rõ tấm lòng của người mẹ già ấy. Đó là tấm lòng của một người phụ nữ hết mực thương con và thương những người đồng cảnh ngộ như mình. Bà cụ Tứ không chỉ thông cảm mà còn thấu hiểu nỗi lòng của người phụ nữ đáng thương, hiểu để chấp nhận nàng về làm dâu nhà mình. Sau cùng, bà cảm thấy sung sướng, hạnh phúc vì đứa con xấu xí của mình giờ đã có bạn đồng hành, bà mở lòng với nàng dâu mới “thôi thì hai đứa có duyên mà sống với nhau thì cũng vui”. Và bà cũng chỉ mong “làm được mấy mâm cũng được” để mừng con dâu mới vào nhà, nhưng giờ giữa cảnh đói khát này, bà chỉ mong “con bà hạnh phúc”. Đó là tấm lòng của người mẹ, tấm lòng của người phụ nữ đầy nhân ái!
Nhưng cùng với niềm vui có dâu mới là nỗi lo lắng, tủi hờn đến tột cùng. Bởi Tràng và Thị đến với nhau trong hoàn cảnh “kẻ chết như ngả rạ”, những đứa con còn sống “xanh như xám”.
Họ đến với nhau là hạnh phúc, nhưng cũng là “nhận nợ đời”. Từ khi biết họ lấy nhau, bà cụ rưng rưng nước mắt tự hỏi: “Không biết có nuôi được nhau qua cơn đói này không?”, những năm tháng ấy tưởng chừng như là một niềm vui tuyệt vời, cũng xen lẫn với những tiếng thở dài, xen lẫn với bóng tối của sự chết chóc, của tiếng quạ kêu: “bà lão nghĩ cho cuộc đời dài dằng dặc của mình. Nếu vợ chồng chúng nó lấy nhau liệu cuộc sống của họ có tốt hơn bố mẹ trước không?”.
Tâm trạng bà cụ Tứ thay đổi khi biết Tràng “nhặt thị” về làm vợ. Nó chuyển từ khoảnh khắc này sang khoảnh khắc khác, từ ngạc nhiên đến thương cảm, từ hạnh phúc đến lo lắng vô bờ bến. Tuy nhiên, ta vẫn thấy được tấm lòng yêu thương con của một người mẹ, sự đồng cảm và thấu hiểu của một người phụ nữ từng trải với một người phụ nữ xa lạ khác, và cả sự kính trọng của một người mẹ chồng. với con dâu mới trong nhà. Có dâu mới trong hoàn cảnh này là phải chia miếng ăn, sẻ đời nhưng bà lão vẫn sẵn sàng chấp nhận. Bà cụ Tứ đúng là người phụ nữ giàu đức hi sinh và tấm lòng nhân ái!
Tâm trạng của bà thay đổi không chỉ trong buổi tối hôm đó mà cả sáng hôm sau khi cô trở thành con dâu của bà. Nếu như trước đây, gương mặt bà “đìu hiu, ảm đạm” thì hôm nay, gương mặt bà “nhẹ nhõm, khác hẳn ngày thường”, “sáng rỡ hơn hẳn”. Phải chăng một tia hy vọng sống mới đã nhen nhóm trong lòng bà lão? Một sự nhẹ nhõm, hạnh phúc, một niềm tin tràn đầy vào tương lai phía trước?
Trong bữa cơm đón dâu mới chỉ có “mớ rau chuối thái rối, đĩa muối ăn với cháo” nhưng cả gia đình ba người “ăn rất ngon”. Lễ mừng dâu mới thê thảm biết bao, nhưng trong lòng mỗi người lại tràn ngập niềm vui mới và một niềm tin vào cuộc sống. Bà Tứ trước kia ủ rũ như vậy, bây giờ sắc mặt rất xa lạ. Bà kể “hết chuyện vui, tính chuyện vui tính sau”. Đó là trái tim lạc quan, yêu đời, ham sống của người mẹ già muốn truyền lại cho con cháu niềm tin về một cuộc sống mới hạnh phúc, đủ đầy hơn.
Bà cụ Tứ là nhân vật tuy chỉ xuất hiện ít trong tác phẩm nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng mỗi chúng ta. Qua từng diễn biến tâm trạng của bà, ta thấy được tấm lòng của người mẹ già trong đói khát vẫn yêu thương con, luôn truyền cho con một niềm lạc quan sống, niềm tin yêu vào cuộc sống. Và ta còn bắt gặp hình ảnh người phụ nữ thôn quê nghèo nhưng giàu lòng nhân ái sẵn sàng chia sẻ “nguồn sống” ít ỏi của mình với người khác trong giai đoạn đói khổ nhất của cuộc đời.
Có thể nói, Kim Lân đã diễn vô cùng thành công khi miêu tả diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ. Từng giai đoạn chuyển biến tâm lí phức tạp của bà cụ ấy được nhà văn miêu tả rất chân thực và hợp lí. Dường như tác giả đã đặt mình vào nhân vật ấy để cảm nhận được những rung động sâu sắc nhất trong lòng người mẹ ấy!
Vợ Nhặt là tác phẩm hiện thực xuất sắc khi phản ánh số phận và vẻ đẹp nhân văn đáng quý của những người nông dân trước Cách mạng tháng Tám. Nạn đói khủng khiếp đã vắt kiệt cuộc sống của con người nhưng đâu đó bên trong những con người như cụ Tứ, Tràng, người vợ nhặt vẫn còn một vẻ đẹp tiềm ẩn đáng trân trọng, đó là vẻ đẹp của tình yêu, của sức sống mãnh liệt.
4. Bài mẫu 3 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Không phải là nhân vật chính, xuất hiện lại ở cuối tác phẩm nhưng bà cụ Tứ – mẹ Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân đã góp phần làm cho tác phẩm thêm phần sâu sắc. Với tình cảnh Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói kém, Kim Lân muốn khắc họa số phận bi thảm của người nông dân trước Cách mạng tháng Tám, thể hiện sự cảm thông, chia sẻ trước khát vọng hạnh phúc. của những số phận bất hạnh đó.
Đúng trong hình ảnh và thật trong từng chi tiết, Kim Lân dường như không kể mà dẫn ta đến chỗ bà cụ Tứ. Bắt đầu với: “vừa đi vào ngõ vừa lầm bầm điều gì đó”. Ta gặp lại dáng gầy gò, lom khom của người phụ nữ quen thuộc trong đời. Cô đơn, chậm chạp sau sự “bất ngờ” trước sự tiếp đón khác thường của con, bà bước vào nhà. Khi nhìn thấy một người phụ nữ đứng ở đầu giường của con mình, cô đã rất ngạc nhiên.
Hàng loạt câu hỏi hiện lên trong đầu óc già nua của bà. “Người phụ nữ nào lại đứng ở đầu giường của con trai mình như vậy? Không phải cái đục. Đó là ai? Sao phải chào mình bằng u?” Đúng vậy, bà không ngờ rằng giữa năm nghèo khó, lại có người lấy con bà. Đọc những dòng này, tôi như thấy lòng người mẹ yếu đuối đang rung lên vì đau đớn, ân hận. Việc quan trọng của đời mình, lẽ ra phải “làm vài mâm cơm”, nhưng “gia đình nghèo quá” nên bà chỉ nghĩ trong đầu, mình không làm được.
Bà cụ thương con trai, hối hận rồi lại thương con dâu. “Người ta phải trải qua bước nghèo khó này, mới lấy con mình mà con mình mới có vợ…” Vừa mừng vừa lo, bà trăn trở trước nỗi lo rất chính đáng của những người từng trải qua cuộc đời vất vả, đau khổ. Cố nén nỗi lo trong lòng, bà cụ động viên con trai tin tưởng vào tương lai: “Vợ chồng bảo nhau làm ăn ai giàu ba họ ai khó ba đời? ” Bà nói với con dâu bằng giọng của một người từng trải – vừa lo vừa thương.
Từ ngạc nhiên đến giây phút lặng người “thấu hiểu ra bao điều”, từ những giọt nước mắt tội nghiệp, xót xa cho cô con dâu đến nỗi lo “không biết nuôi nhau qua cơn đói” đến niềm hân hoan, niềm tin vào tương lai…, tất cả đan xen, hiện lên dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lí tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện tài tình trong từng suy nghĩ, hành động, lời nói. Thật không lẫn vào đâu được cách nói vừa nghĩ vừa bối rối vừa nhân hậu của một bà mẹ già thôn quê.
Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật để phân tích diễn biến tâm lý vừa ghi lại một cách khách quan. Đặt nhân vật vào một hoàn cảnh không gian và thời gian nhất định, Kim Lân đã thể hiện sâu sắc tâm trạng của nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi thấy “mùi đốt mùn của những ngôi nhà có người chết” mà “nghĩ đến ông già, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “đời khổ của mình” rồi lại lo cho tương lai của con cái: “liệu chúng có tốt hơn cha mẹ của họ trước đây không?”.
Nghệ thuật “biện chứng của tâm hồn” đã thể hiện một cách tài tình trong từng biến thái tinh tế và phong phú của tâm lí người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu và trân trọng đặc biệt, phải có một vốn sống phong phú đến mức nào mới có thể diễn đạt chân thực và tài tình đến thế. Vợ nhặt không còn là những trang văn, mà là những trang đời – những trang đời đẫm nước mắt đau thương, xót xa, lo lắng cho tương lai và rạng rỡ trong lòng người mẹ nghèo. Hiện thực nhưng cũng rất cảm động, hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm thức mà người con vô cùng xúc động trước tấm lòng, trước tình yêu thương tha thiết của người mẹ.
Lòng người đọc cũng dâng lên bao nỗi xót xa… Niềm vui của bà lão tội nghiệp – niềm vui không thể cất cánh. Bởi lẽ, còn bát cháo cám, vẫn còn tiếng trống đập khiến niềm vui không trọn vẹn… “Bà không dám để con dâu thấy mình khóc” mà người đọc có thể thấy rõ những giọt nước mắt nước. Trong thâm tâm, bà có thể thấy rõ những giọt nước mắt của Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, Kim Lân đã để trái tim mình đập cùng nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…
Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công hình ảnh người mẹ nghèo khổ suốt đời. Sau bà cụ Tứ, ta thấp thoáng thấy Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần sống hết lòng vì người thân.
5. Bài mẫu 4 Phân tích hình ảnh nhân vật bà cụ Tứ:
Thành công của truyện ngắn Vợ nhặt của Kim Lân trước hết là việc khắc họa đậm nét các nhân vật tiêu biểu: Tràng, bà cụ Tứ, người “vợ nhặt”. Tác phẩm là khúc ca thấm đẫm tình người, trong hoàn cảnh khốn cùng nhất, con người vẫn cõng nhau, dắt nhau tiến về phía trước. Không phải là con người Tràng hay “cô vợ nhặt”, mà chính hình ảnh người mẹ và bà cụ Tứ mới để lại nhiều ấn tượng nhất trong lòng người đọc về tấm lòng người mẹ, tình người, tình yêu thương trong cuộc sống.
Kim Lân là nhà văn xuất thân từ tầng lớp bình dân. Mơ ước trở thành họa sĩ nhưng vì nhà nghèo không có tiền ăn học nên anh đến với văn chương như một cơ duyên. Chính cuộc sống nghèo khổ đã giúp Kim Lân có cái nhìn đầy nước mắt và đồng cảm với những mảnh đời nhọc nhằn. Ông đã xây dựng thành công nhân vật mẹ con cụ Tứ, một người mẹ nghèo trên bối cảnh nạn đói khủng khiếp năm Đinh Dậu. Khó có thể hình dung truyện ngắn Vợ nhặt lại không có nhân vật người mẹ này.
Trước hết, nhân vật bà cụ Tứ hiện lên là một người phụ nữ tuy nghèo nhưng dù đã cao tuổi vẫn phải bươn chải kiếm sống. Ta có thể nhận ra điều này qua một vài chi tiết rất nhỏ: “Từ lùm tre, bà cụ đi vào. Tính nó vẫn thế, vừa đi vừa lầm bầm gì đó trong miệng…”. Hình ảnh bà cụ Tứ khiến người đọc có cảm giác như một bà lão có ngoại hình nhỏ bé, không còn nhanh nhẹn, những bước chân chậm chạp, khó nhọc bước ra từ trong bóng tối. Giữa không gian xóm trọ tồi tàn, người người “tối tăm” vì đói khát, không khí “khốc lên mùi ẩm thấp của rác thải và mùi xác chết đói” cộng hưởng với tiếng “lẩm bẩm tính toán” khiến chúng tôi sợ hãi. Còn gì có thể tính toán được trong cảnh “không còn gì để mất” này? Vì thế, bà cụ Tứ đã bước tới để mang cả “bầu trời” thê lương vào lòng.
Tiếp đó, Kim Lân còn xây dựng nhân vật bà cụ Tứ giàu lòng yêu thương, đức hi sinh, luôn mong ước có được cuộc sống hạnh phúc đủ đầy. Bà Tứ là một người mẹ luôn biết cách thấu hiểu cho con trai – cu Tràng, hết lòng mong con hạnh phúc. Điều này được thể hiện rõ qua diễn biến tâm lí của bà cụ Tứ xuyên suốt câu chuyện. Lúc đầu thấy anh Tràng chở một phụ nữ về, cụ Tứ “ú ớ”, “ngỡ ngàng”. Rồi bất ngờ hơn nữa, khi người phụ nữ kia “chào bà bằng u”. Đã sống hơn nửa đời người, bà Tứ dường như dần hiểu ra mọi chuyện, hai mắt híp lại. Một câu hỏi lớn hiện lên trong đầu bà Tứ: giữa nạn đói khủng khiếp này, ăn không đủ no thì làm sao sống nổi? Bà hiểu tất cả, hiểu khát khao có một mái ấm gia đình nhưng thực tế phũ phàng không cho Tràng cơ hội có một đám cưới tươm tất như bao người. Của hồi môn là vài bát bánh đúc, vợ là người phụ nữ “nhặt” được, thế nhưng, sau một hồi đắn đo, bà Tứ cũng “vui lòng” nhận. Đó chẳng phải là minh chứng cho khát vọng hạnh phúc gia đình của bà cụ hay sao? Bà Tứ không chỉ thương con mà còn là người giàu lòng nhân ái, thương người cùng cảnh ngộ. Bà chấp nhận một người phụ nữ xa lạ làm con dâu dù “không biết các con có nuôi được nhau không”.
Bằng tài năng và sự đồng cảm sâu sắc, Kim Lân đã dựng nên “hình ảnh chân thực và cảm động về người mẹ nông dân nghèo khổ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945”. Bằng tài năng, cùng tình cảm thiết tha với tấm lòng người mẹ nghèo, Kim Lân đã khắc họa nhân vật vừa sinh động, chân thực, vừa gây xúc động, day dứt với người đọc. Chính hành động, lời nói, nụ cười trên gương mặt u ám của bà đã làm bừng sáng câu chuyện sau bóng tối, bế tắc của cuộc sống nghèo khó. Ý nghĩa nhân văn mà nhà văn muốn gửi gắm qua nhân vật này là con người dù bị đặt vào hoàn cảnh éo le, cận kề cái chết nhưng vẫn không đánh mất đi giá trị tinh thần và phẩm chất tốt đẹp: lòng yêu thương con cái, con người và thái độ lạc quan hi vọng vào một tương lai tươi sáng dù chỉ là một tia hi vọng mong manh. Kim Lân đã phát hiện và thể hiện thành công điều đó ở nhân vật bà cụ Tứ.