Phân tích khổ 3 4 bài Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương

Viếng lăng Bác là một trong những bài trọng tâm của chương trình Ngữ Văn, đây là bài thơ được viết sau khi đất nước đã được độc lập, giải phóng, nhà thơ ra thăm lăng bác với những cảm xúc đây xúc động bồi hồi. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ gửi đến bạn đọc những bài phân tích khổ 3 4 bài thơ Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương. 

1. Dàn ý phân tích khổ 3 4 bài Viếng lăng Bác của nhà thơ Viễn Phương?

Mở bài: giới thiệu tác giả, tác phẩm

Thân bài: 

– Bên trong lăng, khung cảnh và không khí như ngưng tụ cả thời gian và không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả chính xác và tinh tế vẻ tĩnh mịch, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ của không gian trong lăng Bác.

– Đứng trước Bác, nhà thơ có cảm giác Bác đang ngủ yên bình, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền.

– Hình ảnh “vầng trăng trong sáng hiền hòa” gợi cho ta tâm hồn, cách sống thanh cao, trong sáng của Bác Hồ và những vần thơ tràn ngập ánh trăng của Bác. Trăng và Bác đã từng đi vào thơ Bác trong tù, ngoài chiến trận, nay trăng cũng đã về với Bác để ru Bác vào giấc ngủ vĩnh hằng. -> Chỉ với trí tưởng tượng, sự hiểu biết và lòng yêu mến những nét đẹp trong nhân cách Hồ Chí Minh, nhà thơ mới có thể tạo nên những hình ảnh thơ đẹp đến thế!

– Tâm trạng xúc động của nhà thơ được thể hiện bằng hình ảnh ẩn dụ sâu sắc: “Vẫn biết trời xanh là mãi mãi”.

+ “Trời xanh” trước hết được hiểu theo nghĩa hiện thực, nó là hình ảnh của thiên nhiên mà hàng ngày chúng ta vẫn đang chiêm ngưỡng, nó tồn tại mãi mãi, trường tồn.

+ Mặt khác, “trời xanh” còn là một ẩn dụ sâu sắc: Bác vẫn ở trong nước, như “trời xanh” vĩnh hằng. Nhà thơ Tố Hữu đã viết: “Bác sống như đất trời của chúng ta”, bởi Bác đã hóa thân vào thiên nhiên, đất nước, dân tộc.

– Dù có niềm tin ấy, nhưng hàng chục triệu người dân Việt Nam vẫn vô cùng đau xót, tiếc thương trước sự ra đi của Bác – “Sao nghe nhói đau trong lòng”.

+ “Nhói” là biểu hiện trực tiếp của cơn đau đột ngột. Bản thân tác giả cảm nhận được nỗi đau mất mát trong sâu thẳm tâm hồn: nỗi đau tột cùng không thể nói thành lời. Đó không chỉ là nỗi đau của riêng tác giả mà còn là tiếng lòng của hàng triệu người dân đất Việt.

+ Cặp quan hệ từ “còn, mà” biểu thị mâu thuẫn. Cảm giác nhói trong tim mâu thuẫn với nhận định bầu trời mãi mãi trong xanh. Như vậy, giữa tình cảm và lý trí có sự mâu thuẫn. Con người không thể kìm lại một phút yếu lòng. Chính nỗi buồn này đã làm cho tình cảm giữa lãnh tụ và nhân dân trở nên rạn nứt. 

– Nếu như ở khổ thơ đầu, nhà thơ tự giới thiệu mình là người con của miền Nam vào thăm Bác thì ở khổ thơ cuối, nhà thơ lại nhắc đến cảnh chia xa Bác. Nghĩ đến ngày mai về miền Nam xa Bác Hồ, xa Hà Nội, cảm xúc của nhà thơ không kìm nén, giấu kín trong lòng mà bộc lộ ra bên ngoài:

+ Câu thơ “Ngày mai vào Nam nước mắt tuôn trào” như một lời tiễn biệt.

Từ đơn giản thể hiện tình cảm sâu sắc.

+ Từ “trào dâng” thể hiện cảm xúc mãnh liệt, nỗi nhớ nhung da diết không muốn rời xa nơi ở của Bác.

+ Đó không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn của hàng triệu trái tim khác. Được ở gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng chúng em không bao giờ muốn xa Bác vì Bác ấm áp quá, bao la quá.

– Dù muốn được ở bên Bác mãi mãi nhưng tác giả cũng biết rằng đã đến lúc phải trở về miền Nam. Và bạn chỉ có thể gửi gắm tấm lòng của mình bằng mong muốn được hóa thân, hòa vào cảnh vật xung quanh lăng để được mãi ở bên Người trong thế giới của Người:

+ Điệp từ “muốn làm” và những hình ảnh đẹp về thiên nhiên “chim”, “hoa”, “tre” đã thể hiện niềm khát khao tha thiết, mãnh liệt của tác giả.

+ Nhà thơ mong ước được hoá thân thành con chim nhỏ hót véo von bên lăng Bác, là loài hoa đem lại sắc màu cho vườn hoa quanh lăng.

Kết bài: Đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.

2. Những bài phân tích viếng lăng Bác đạt điểm cao nhất: 

2.1. Bài mẫu 1: 

Viếng lăng Bác của Viễn Phương là bài thơ xuất sắc viết năm 1976, là một bài thơ trữ tình ghi lại những cảm xúc chân thành, sâu sắc của nhà thơ khi hòa vào dòng người vào viếng lăng Bác. Qua đó coi bài thơ như tiếng nói tình cảm của nhân dân đối với Bác Hồ. Đặc biệt, những tình cảm đó dạt dào, dạt dào ở khổ thơ 3 và 4.

Hai khổ thơ cuối 3 và 4 của bài thơ như những nốt nhạc trầm bổng, du dương, da diết như tình yêu thiết tha của nhà thơ đối với Hồ Chủ tịch. Bằng những từ ngữ ẩn dụ độc đáo, ngôn từ giản dị mà giàu sức gợi, đoạn thơ đã khơi dậy trong lòng người đọc những rung động sâu sắc, đáng quý…

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền”

Khung cảnh bên trong lăng rất tĩnh lặng và yên bình. Lúc này trước mặt mọi người chỉ có hình ảnh của Bác. Anh nằm đó trong giấc ngủ vĩnh hằng. Bác mất thật rồi sao? Không. Người chỉ nằm đó ngủ. Bảy mươi chín năm cống hiến cho đất nước, nay đất nước đã hòa bình, Bác đã yên nghỉ. Bao quanh giấc ngủ của Bác là “vầng trăng sáng dịu hiền”. Đó là hình ảnh ẩn dụ cho những năm tháng làm việc của Bác, luôn có vầng trăng bên cạnh. Từ giữa chốn ngục tù, đến “cảnh đêm” của núi rừng Việt Bắc, rồi “nguyên tiêu”… Tuy nhiên, Bác không bao giờ rảnh rỗi để ngắm trăng đúng nghĩa. Có lúc “trong tù không rượu không hoa”, có lúc “quân tử bận rộn”. Chỉ đến bây giờ, trong giấc ngủ bình yên, vầng trăng ấy mới thực sự là vầng trăng bình yên để Bác yên giấc và ngắm nhìn. Vầng trăng hiền soi ảnh Bác Hồ. Nhìn Bác nằm ngủ thật yên bình, nhưng có một sự thật, dù đau đớn đến đâu, chúng ta vẫn phải chấp nhận: Bác đã thực sự ra đi mãi mãi.

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!”

Bầu trời xanh bao la ấy kéo dài đến vô tận, không bao giờ kết thúc. Dù lý trí luôn trấn an rằng Bác vẫn còn sống, vẫn mãi dõi theo Tổ quốc như màu xanh hòa bình trên bầu trời Tổ quốc độc lập, nhưng lòng chúng tôi vẫn đau đáu trước một sự thật đau lòng. Một chữ “dày” của nhà thơ đã nói thay cho chúng ta nỗi đau, nỗi đau vượt lên trên mọi lý trí. Bác như bầu trời, Bác còn mãi, Bác vẫn sống trong tâm trí mỗi chúng ta, Bác mãi hiện diện trên từng mảnh đất, từng thành quả, từng thành tố tạo nên đất nước này. Nhưng khi Bác mất, chúng tôi không còn Bác trong cuộc sống đời thường này nữa. Mất Bác, sự thiếu vắng ấy liệu có bù đắp được? Đất nước ta thực sự không còn Bác Hồ dõi theo từng bước đi, không còn được Bác nâng đỡ mỗi khi vấp ngã. Bác ra đi, nỗi đau có từ nào diễn tả được không? Toàn thể nhân dân Việt Nam luôn thương tiếc Bác, luôn nhớ đến Bác như một điều gì đó cao cả, không gì có thể xóa nhòa. Dù Bác đã thực sự ra đi nhưng những gì Bác đã làm sẽ còn mãi trong tâm hồn, hình ảnh của Bác sẽ còn mãi trong trái tim mỗi người Việt Nam.

Cuối cùng, dù thương tiếc Bác đến đâu, cũng đến lúc phải từ biệt Lăng Bác để ra về. Khổ thơ cuối như một lời tiễn biệt xúc động:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt”

Ngày mai tác giả phải rời xa Bác. Một tiếng “miền Nam yêu thương” vang lên, gợi nhớ về miền đất xa xôi của Tổ quốc, nơi đã từng ghi dấu ấn sâu đậm trong lòng người. Một chữ “thương” là tình yêu, lòng biết ơn, sự kính trọng đối với cuộc đời cao cả, vĩ đại của Người. Đó là tiếng tiếc thương khi mất Bác. Thương Bác mà nước mắt trào ra, đúng là tình người Việt Nam vô bờ bến và rất thật.

“Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”

Cùng với tình yêu thương vô bờ bến, tác giả đã nói lên rất nhiều lời tự nguyện. Điệp ngữ “muốn làm” khẳng định mạnh mẽ những mong ước đó. Ước gì chúng ta có thể hóa thân thành những đồ vật thân yêu xung quanh nơi Bác Hồ ngủ để chúng ta mãi mãi ngưỡng mộ Người, cuộc đời và tâm hồn Người, để bày tỏ tấm lòng của mình với Người. Một con chim nhỏ góp tiếng ca bình minh cùng Bác, một bông hoa góp hương làm thơm không gian quanh Bác hay một cây tre trong hàng tre xanh xanh của Việt Nam tỏa bóng mát dịu dàng cho quê hương Bác, tất cả làm ta vui hơn. Đây cũng là nguyện vọng chân thành và sâu sắc của hàng triệu trái tim người Việt Nam sau chuyến viếng thăm lăng Bác. Bác hãy yên nghỉ, chúng cháu sẽ trở lại miền Nam tiếp tục xây dựng đất nước từ nền móng mà anh đã dày công xây dựng! Câu thơ chìm dần đến cuối, dừng…

Về nghệ thuật, bài thơ “Viếng lăng Bác” có nhiều điểm nghệ thuật đặc sắc góp phần thể hiện thành công những giá trị nội dung của nó. Bài thơ được viết theo thể tám chữ, xen một số câu bảy, chín chữ. Nhiều hình ảnh trong bài thơ được lấy từ hiện thực cuộc sống đã được ẩn dụ, trở thành cách thể hiện tình cảm trân trọng của tác giả. Nhịp thơ linh hoạt, có lúc nhanh là biểu hiện của lòng mong nhớ đền ơn Bác, có lúc chậm là lúc tỏ lòng thành kính với Bác. Giọng điệu trang trọng, tha thiết, ngôn ngữ thơ giản dị mà cô đúc.

2.2. Bài mẫu 2: 

Viễn Phương là một trong những cây bút sớm nhất của lực lượng giải phóng miền Nam trong cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Thơ Viễn Phương bình dị, nồng nàn đậm chất Nam Bộ. Đến sau trong mảng đề tài thơ về Bác do điều kiện, hoàn cảnh: là người con miền Nam, cầm súng ra tiền tuyến… nhà thơ Viễn Phương đã để lại bài thơ “Viếng lăng Bác” độc đáo với những xúc cảm sâu sắc tô màu bởi tình đẹp, bởi lời hay. Đặc biệt, hai câu thơ cuối thể hiện sâu sắc và cảm động tinh thần kính trọng lãnh tụ và ý chí hiến dâng cuộc đời mình cho cảnh đẹp của đất nước:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!

Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh lăng Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre trung hiếu chốn này”.

Từ lâu, cũng như những người lính và đồng bào ở miền Nam xa xôi, Viễn Phương luôn mong mỏi được về thăm lăng Bác, về với vị cha già vĩ đại của mình. Nhưng chiến tranh còn dài, địch còn ngoan cố nên mãi sau ngày đất nước giải phóng, ông mới có cơ hội thực hiện ước nguyện đó.

Tác giả đến lăng Bác trong tâm trạng bùi ngùi, ngậm ngùi tiếc thương cho người đã ra đi mãi mãi, đồng thời cũng cảm thấy tự hào, mãn nguyện vì đã về với anh linh vĩ đại của dân tộc. nguồn sức mạnh thiêng liêng. Bước vào lăng, khung cảnh và không khí như ngưng tụ cả thời gian và không gian. Hình ảnh thơ đã diễn tả chính xác và tinh tế vẻ tĩnh mịch, trang nghiêm và ánh sáng dịu nhẹ của không gian trong lăng Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim!”.

Khổ thơ mở đầu bằng hình ảnh Bác Hồ được miêu tả chân thực. Đứng trước Bác, nhà thơ có cảm giác như Bác đang ngủ yên bình, thanh thản giữa vầng trăng sáng dịu hiền. Tất cả gợi lên một khung cảnh linh thiêng, thành kính vô cùng. Im lặng đến lạ thường, không một âm thanh, chỉ có ánh sáng, đủ đưa người ta vào tâm trí.

Ranh giới mong manh giữa tồn tại và hư vô khiến không gian càng thêm huyền diệu. Vầng trăng lung linh quanh quan tài của anh, đồng hành cùng anh trong thế giới siêu nhiên. Hình ảnh “vầng trăng sáng hiền” gợi cho ta tâm hồn, cách sống thanh cao, cao thượng, trong sáng của Bác Hồ.

Thương Bác nhiều mà không được gần Bác nhiều nên giờ phút chia tay thật bùi ngùi, lưu luyến. Nghĩ về tương lai miền Nam xa Bác Hồ, xa Hà Nội, cảm xúc của nhà thơ không kìm nén, giấu kín trong lòng mà bộc lộ ra bên ngoài:

“Mai về miền Nam thương trào nước mắt

Muốn làm con chim hót quanh Bác

Muốn làm đóa hoa tỏa hương đâu đây

Muốn làm cây tre chung hiếu chốn này”.

Với cách diễn đạt đậm chất Nam Bộ , câu thơ đã trở thành đỉnh cao của mạch cảm xúc, giúp tác giả chắt chiu những tình cảm kính yêu, kính trọng Bác. Đó không chỉ là tâm trạng của tác giả mà còn của hàng triệu trái tim khác. Được ở gần Bác dù chỉ trong giây phút nhưng tác giả không bao giờ muốn xa Bác vì Bác ấm áp quá, bao la quá.

Vì yêu mến, kính trọng, ngậm ngùi không nỡ rời xa, nhà thơ đã ước được làm “con chim” thân thương “ca hát quanh lăng”, muốn là “bông hoa thơm” tỏa hương quanh lăng, muốn là “cây trúc” ” cây” để suốt đời trung thành, thủy chung, kính yêu cha già dân tộc.

Đặc biệt là ước nguyện “Muốn làm cây tre trung thành ở nơi này” để vào hàng tre bao la, canh giữ giấc ngủ vĩnh hằng của Người. Hình ảnh tượng trưng cây tre một lần nữa gợi cho bài thơ có một kết cấu đầu cuối tương ứng.

Nếu như ở khổ thơ đầu có hàng tre như những người dân quây quần bên Bác, cùng Bác sống, cùng Bác chiến đấu giữ vững nền hòa bình, độc lập của dân tộc, thì khổ thơ cuối chỉ là “cây tre” tượng trưng cho nhà thơ , nhân cách nhà thơ, ý chí kiên định, bất khuất của dân tộc.

Hình ảnh hàng tre quanh lăng Bác được lặp lại ở câu thơ cuối như mang một ý nghĩa mới, tạo ấn tượng sâu sắc, làm trọn vẹn dòng cảm xúc. “Cây tre trung kiên” là hình ảnh ẩn dụ thể hiện lòng kính yêu và lòng trung thành vô hạn đối với Bác Hồ, nguyện suốt đời đi theo con đường cách mạng mà Người đã chỉ lối. Đó là lời hứa thủy chung của nhà thơ và cũng là ý nguyện của người dân miền Nam và của mỗi chúng ta đối với Bác Hồ.

3. Bài phân tích viếng lăng Bác ấn tượng nhất: 

Viếng lăng Bác là bài thơ kết tinh trọn vẹn những cảm xúc của Viễn Phương khi lần đầu tiên vào Nam ra Hà Nội và viếng lăng Bác. Nếu hai khổ thơ đầu thể hiện cảm xúc của tác giả khi đứng trước lăng Bác và khi hòa vào dòng người vào lăng thì khổ thơ thứ ba thể hiện cảm xúc thiêng liêng của nhà thơ khi vào viếng lăng Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền

Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

Hai câu thơ đầu tiên của khổ thơ miêu tả cảm xúc của Viễn Phương khi nhìn thấy di hài của Bác:

“Bác nằm trong giấc ngủ bình yên

Giữa một vầng trăng sáng dịu hiền.”

Nhà thơ cùng dòng người tiến vào lăng, đứng từ xa chiêm ngưỡng Bác và tưởng chừng Bác như chìm vào giấc ngủ êm đềm không mộng mị, ánh đèn dìu dịu lúc ấy bỗng thành vầng trăng tỏa ánh sáng dịu êm, sáng trong. Đoạn thơ đã miêu tả vừa khái quát nhưng không kém phần tinh tế không gian trang nghiêm trong lăng Bác. Bác đã ra đi nhưng trong mắt tác giả đó chỉ là một giấc ngủ dài yên bình, không còn lo lắng cho đất nước, cho nhân dân, không còn trăn trở. Không khí đó bất cứ người Việt Nam nào khi đến thăm lăng Bác đều có thể cảm nhận được, Viễn Phương đã nói lên tình cảm, sự xúc động của hàng triệu trái tim khi đứng trước di hài của Bác.

Nhìn ảnh Bác Hồ, Viễn Phương nghẹn ngào:

“Vẫn biết trời xanh là mãi mãi

Mà sao nghe nhói ở trong tim”.

Nghệ thuật đối lập “vẫn biết” và “tuy nhiên” thể hiện sự mâu thuẫn, tương phản giữa khối óc và con tim. Tâm niệm khẳng định chân lý vĩnh hằng Bác Hồ vẫn sống mãi trong tâm trí người dân Việt Nam, trường tồn bất tử nhưng lòng người vẫn bùi ngùi, nghẹn ngào chấp nhận thực tại Bác đã mãi mãi ra đi. Nghệ thuật ẩn dụ chuyển cảm giác “nghe” thấy thành cái chỉ có thể cảm – “nhói trong tim” giúp khắc sâu và nhấn mạnh nỗi đau như dằn vặt, đáng thương và đau đớn tột cùng. Người đọc chợt nhớ đến những câu thơ Tố Hữu nghẹn ngào khóc thương Bác:

“Bác đã đi rồi sao Bác ơi!

Mùa thu đang đẹp nắng xanh trời.”

Hai bài thơ tuy viết ở hai thời điểm khác nhau nhưng cùng chung một nỗi niềm đau đáu, làm rung động trái tim người đọc.

Khổ thơ diễn tả cảm xúc của Viễn Phương khi vào viếng lăng Bác một lần nữa nói lên niềm tiếc thương của biết bao người. Những vần thơ nghẹn ngào, đầy nước mắt, cảm động nhưng vẫn không kém phần trang trọng, mạch lạc. Bác vẫn sống mãi trong lòng mỗi chúng ta, bởi “trời xanh là mãi mãi”.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com