Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phân Bội Châu hay nhất

Lưu biệt khi xuất dương là một bài thơ tiêu biểu cho phong cách viết của Phan Bội Châu, nó không chỉ đơn thuần là một bài thơ ca ngợi lý tưởng cách mạng của người yêu nước, mà còn đánh dấu bước ngoặt quan trọng trong sự nghiệp tìm đường cứu nước theo chủ nghĩa tư bản của ông. 

1. Tìm hiểu chung về tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương?

1.1. Tác giả Phan Bội Châu:

Phan Bội Châu (1867-1940) biệt hiệu là Sào Nam, người làng Đan Nhiệm, xã Nam Hoà, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An, là một nhân vật kiệt xuất cảa lịch sử nước nhà suốt mấy chục năm đầu của thế kỉ XX.

– Ông là người học giỏi, giàu lòng yêu nước và có chí lớn. Năm 1900, đỗ cử nhân (kỳ thi Hương trường Nghệ) . Ông trở thành lãnh tụ của nhiều phong trào yêu nước chống Pháp như Duy Tân, Đông Du v.v.

Ông là cây bút suất sắc của văn chương Cách mạng. Các tác phẩm chính: Việt Nam vong quốc sử, Hải ngoại huyết thư, Ngục trung thư, Trùng Quang tâm sử, Phan Sào Nam văn tập, Phan Bội Châu niên biểu,…

1.2. Tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương:

Bài thơ được sáng tác vào năm 1905 trước lúc tác giả sang Nhật Bản tìm một con đường cứu nước mới, ông làm bài thơ này để giã từ bè bạn, đồng chí.

Bài thơ khắc họa vẻ đẹp lãng mạn, hào hùng của nhà chí sĩ cách mạng những năm đầu thế kỉ XX, với tư tưởng mới mẻ táo bạo, bầu nhiệt huyết sôi nổi và khát vọng cháy bỏng trong buổi đầu ra đi tìm đường cứu nước

2. Hướng dẫn phân tích bài Lưu biệt khi xuất dương:

2.1. Mở bài:

– Giới thiệu tác giả Phan Bội Châu

– Giới thiệu tác phẩm Lưu biệt khi xuất dương

– Dẫn dắt vào vấn đề phân tích tác phẩm

2.2. Thân bài:

Hai câu đề

– Tác giả nêu lên quan điểm mới: là đấng nam nhi phải sống cho ra sống và để làm nên điều kỳ diệu “yếu hi kì” chính là phải sống cho phi thường hiển hách, dám mưu đồ xoay chuyển giang sơn.

-Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi phải tự tin vào mức độ và khả năng của bản thân.

-Tuyên ngôn về đạo làm trai.

Hai câu thực

– “Tu hữu ngã” (phải có trong cuộc đời) ý thức trách nhiệm của cái tôi cá nhân trước xã hội, không những là trách nhiệm với bản thân mà còn trách nhiệm trước lịch sử của dân tộc “thiên tỉa hậu” (nghìn năm sau)

– Đó là ý thức sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng nhận tất cả trách nhiệm do lịch sử giao phó.

Hai câu luận

– Nêu lên thực trạng của đất nước: “non sông đã chết” và tạo ra ý thức về lẽ vinh nhục cùng với sự sống còn của đất nước, dân tộc.

– Đề xuất quan điểm mới lạ, táo bạo với nền giáo dục cũ: “hiền thánh ở đâu học cũng được

– Bộc lộ cá tính mạnh mẽ, táo bạo và quyết đoán của một nhà cách mạng tiên phong: đưa sự nghiệp giải phóng dân tộc lên trên hết. 

Hai câu kết

– Hình tượng kì vĩ “Trường phong” (ngọn gió dài) – “thiên trùng bạch lãng” (ngàn lớp sóng bạc)

– Tư thế: “nhất tề phi” (cùng bay lên)

– Hình ảnh đầy lãng mạn hào hùng, đưa nhân vật trữ tình vào tư thế bước qua hiện thực đen tối với đôi cánh thiên thần, bay lên tầm vũ trụ. Người thể hiện khát vọng dấn thân của bậc nam nhi anh hùng khi ra khơi giữa mênh mông sóng bạc tìm cách cứu sống gian sơn đất nước.

2.3. Kết bài:

– Nêu tóm tắt ý nghĩa và giá trị nghệ thuật của bài thơ

– Nêu cảm nhận của người viết

3. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phân Bội Châu hay nhất:

Phan Bội Châu (1867-1940) , là cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt). Phan Bội Châu là thủ lĩnh của nhiều phong trào đấu tranh giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với nhiều tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số tờ báo cùng nhiều vở tuồng ca ngợi tình yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu).

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu cử nhân khoa thi Hương trường Nghệ Năm 1904 ông thành lập nên Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Đông du. Theo chủ trương của Duy Tân hội do chính ông thành lập, ông đã qua Nhật để tìm cách cứu nước.

Hai câu như là một tuyên ngôn về lý tưởng, về lẽ sống cao đẹp:

“Sinh vi nhân yếu hi kì

Lời hứa càn khôn tự đi “

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải sống cho ra sống và mong muốn làm nên “điều lạ” (thích hi kỳ) . Suy rộng ra, là không thể sống tầm thường. phải sống một cách bị động để trời đất (vũ trụ) “tự chuyển dời” một cách vô nghĩa và tẻ nhạt. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin vào mức độ và khả năng của mình muốn làm nên sự nghiệp lớn lao, thay đổi đất trời, mà ông đã chỉ ra trong một bài thơ khác:

“Dang tay ôm chặt bồ kinh tế

Mở miệng cười tan cuộc hận thù”.

Gắn câu thơ với phong trào cách mạnh vô cùng sôi động của Phan Bội Châu, ta mới cảm nhận được những phẩm chất phi thường của người trí thức lỗi lạc. Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên thế gian đã từng ấp ủ và tâm đắc theo một vần thơ cổ:

“Nhất phạn bất vong duy trúc bạch

Lập thân tối hạ thị văn học “

(” Tuỳ viên thi thoại “- Viên Mai)

Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời phải có một “bầu máu nóng” sục sôi: “Tôi được trời phú cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi nào, lúc thơ nhỏ đọc sách của cha mình, mỗi khi đèn những chỗ mà người xưa nộp thuế để trở thành đạo nhân thì nước mắt cứ tuôn rơi xuống ướt sũng cả giấy...

Ở phần thực, ý thơ được bổ sung, tác giả tự khẳng định vị trí của mình trong xã hội và trong lịch sử:

“Ư bách niên trung tu hữu ngã

Khởi thiên tải hậu cánh vô thuỳ “

“Ngã” là người: “tu hữu ngã” nghĩa là không có ai trong cuộc đời “một trăm năm” (bách niên trung) . Câu thơ khẳng định, thể hiện lòng tự hào to lớn của dân tộc về thời nước mất nhà tan. “Thiên tải hậu” nghìn năm sau, là lịch sử của quốc gia và dân tộc nhưng cũng không có ai (ghi lại danh tính) cả? Hai câu 3 và 4 đối lại, lấy cái phủ định để chỉ rõ sự khẳng định. Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác tất cả trọng trách do lịch sử giao phó. Ý tưởng tốt đẹp này là sự tiếp nối các tư tưởng to lớn của nhiều danh nhân trong lịch sử:

“… Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.

(“Hịch tướng sĩ’ – Trần Quốc Tuấn)

“… Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.

(Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người làm cái vô hạn “thiên tải” của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo ra một giọng thơ đĩnh đạc, hào sảng, thể hiện một quyết tâm và khát vọng của buổi lên đường. Vì thế, trên hành trình đấu tranh giải phóng dân tộc, trải qua vô vàn gian khổ và hiểm nguy, ông luôn kiên cường, bất khuất.

4. Phân tích Lưu biệt khi xuất dương của Phân Bội Châu ý nghĩa nhất:

Phan Bội Châu (1867-1940) , là cái tên đẹp một thời. “Chúng ta có thể nói rằng trong lịch sử giải phóng dân tộc của nhân dân Việt Nam, trước Chủ tịch Hồ Chí Minh, Phan Bội Châu là một nhân vật vĩ đại” (Tôn Quang Phiệt) . Phan Bội Châu là thủ lĩnh của nhiều phong trào đấu tranh giải phóng Tổ quốc khoảng 25 năm đầu thế kỉ XX. Tên tuổi ông gắn liền với nhiều tổ chức yêu nước như Hội Duy Tân, phong trào Đông du, Việt Nam Quang Phục Hội. Tên tuổi Phan Bội Châu gắn liền với hàng trăm bài thơ, hàng chục cuốn sách, một số tờ báo cùng nhiều vở tuồng ca ngợi tình yêu nước. “Phan Bội Châu câu thơ dậy sóng” (Tố Hữu) .

Năm 1900, Phan Bội Châu đậu cử nhân khoa thi Hương trường Nghệ Năm 1904 ông thành lập nên Hội Duy Tân, một tổ chức yêu nước. Năm 1905 ông dấy lên phong trào Duy Tân. Theo chủ trương của Duy Tân hội do chính ông thành lập, ông đã qua Nhật để tìm cách cứu nước. Bài thơ “Xuất dương lưu biệt” ông làm tặng các chiến sĩ trong ngày đầu tiên lên đường. Có thể nói bài thơ này đánh dấu một mốc son chói lọi trong sư nghiệp giải phóng dân tộc của nhà chí sĩ Phan Bội Châu.

“Xuất dương lưu biệt” được viết bằng chữ Hán, theo thể thơ Đường luật, là bài hát biểu thị tư thế, quyết tâm mãnh liệt, cùng nhiều ý nghĩ cao đẹp mới mẻ của chí sĩ Phan Bội Châu trong ngày đầu tiên xuất dương cứu nước.

Hai câu để là một tuyên ngôn về chí hướng, về lẽ sống cao cả:

“Sinh vi nam tử yếu hi kì
Khẳng hứa càn khôn tự chuyển di”

Tự hào mình là đấng nam nhi thì phải biết sống cho ra trò sống và mong muốn làm nên “điều lạ” (thích hi kỳ). Suy rộng ra, là phải sống hữu hạn. phải sống một cách bị động để trời đất (vũ trụ) “tự chuyển dời” trở nên tầm thường, vô vị. Câu thơ thể hiện một tư thế, một tâm thế đẹp về chí nam nhi, tự tin ở trình độ và khả năng của mình để làm nên sự nghiệp lớn lao, thay đổi trời đất, mà ông đã chỉ ra trong một bài thơ khác:

 “Dang tay ôm chặt bồ kinh tế,
Mở miệng cười tan cuộc oán thù”.

Gắn câu thơ với phong trào cách mạnh vô cùng sôi động của Phan Bội Châu, ta mới thấy được những phẩm chất phi thường của nhà chính trị vĩ đại. Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên thế gian đã từng ấp ủ và tâm đắc theo một vần thơ cổ:

 “Mỗi phạn bất vong duy trúc bạch,
Lập thân tối hạ thị văn chương ”

(“Tùy viên thi thoại” – Viên Mai)

Đấng nam nhi muốn làm nên “điều lạ” ở trên đời luôn có một “bầu máu nóng” sục sôi: “Tôi được trời ban cho bầu máu nóng cũng không đến nỗi nào, lúc thơ nhỏ đọc sách của cha mình, nhất là khi đèn những chỗ nói người xưa nộp thuế mới trở thành đạo nhân thì nước mắt cứ tuôn rơi xuống ướt sũng cả giấy. ..” (Quan trung thư).

Phần hồn, ý thơ được mở rộng, tác giả muốn khẳng định vị trí của bản thân trong xã hội và trong lịch sử:

 “Ư bách niên trung tu hữu ngã
Khởi thiên tải hậu cánh vô thùy”

Đó là một ý thơ sâu sắc thể hiện vai trò cá nhân trong lịch sử: sẵn sàng gánh vác mọi trách nhiệm mà lịch sử giao phó. Ý tưởng đẹp đẽ này là sự kế thừa những tư tưởng vĩ đại của các vĩ nhân trong lịch sử:

“… Dẫu cho trăm thân này phơi ngoài nội cỏ, nghìn xác này gói trong da ngựa, ta cũng cam lòng”.

(“Hịch tướng sĩ’ – Trần Quốc Tuấn)

“… Nhân sinh tự cổ thùy vô tử,
Lưu thủ đan tâm chiếu hãn thanh”.

(Văn Thiên Tường)

Lấy cái hữu hạn “bách niên” của một đời người làm cái vô hạn “thiên tải” của lịch sử dân tộc. Phan Bội Châu đã tạo ra một giọng thơ đĩnh đạc, hào sảng, thể hiện một quyết tâm và khát vọng của buổi lên đường. Vì thế, trên hành trình đấu tranh giải phóng dân tộc, trải qua vô vàn gian khổ và hiểm nguy, ông luôn kiên cường, bất khuất.

Bài thơ sục sôi, tràn trề hy vọng và quyết tâm đi khắp nước Nhật để tìm kiếm con đường cứu nước. Hình ảnh kết thúc bài thơ rất mạnh mẽ và oai hùng, đó là sự quyết tâm của con người bắt kịp với thời đại mới. Với hy vọng về ngày mai tươi sáng hơn.

5. Nhận xét chung:

Bài thơ Lưu biệt khi xuất dương là một trong những bài thơ hay nhất của Phan Bội Châu, bài thơ với giọng điệu hào hùng. Bài thơ giai điệu hào hùng, từ ngữ cuốn hút là một bài hát hay ca ngợi người con trai đã xả thân mình vì sự nghiệp giữ nước của dân tộc. Khí chất hào hùng và sức trai trẻ hừng hực trong bài thơ mãi là tấm gương để người đời sau noi theo và học tập.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com