Gặp phải trắc trở trong tình yêu là điều không ai mong muốn, việc phải đặt tình thân và tình yêu lên bàn cân so sánh là cả một sự đau khổ, dằn vặt, chúng ta hãy cùng tìm hiểu tâm trạng của Thúy Kiều trong bài viết dưới đây để xem cách giải quyết của nàng nhé
1. Dàn ý phân tích tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên ngắn gọn nhất:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
– Đoạn 1: Thúy Kiều xin Thúy Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng.
Kiều dựa vào Vân, từ “cậy” mang sắc thái khác thường (tin, nhận, lạy, thưa). Cách xưng hô vừa ước lệ vừa khẩn thiết của Kiều, thích hợp để nói về vấn đề tế nhị “tình huynh đệ”.
Làm tôi nhớ đến mối tình với Kim: gần gũi nhưng mong manh, chóng tan.
Cách nói của Kiều thể hiện sự thông minh, trí tuệ, qua đó thể hiện tài năng ngôn ngữ bậc thầy của Nguyễn Du.
+ Kiều trao duyên cho em. Chú ý cách trao yêu thương – trao lời chân thành, nhiệt tình; trao kỉ vật, nửa trao, nửa giữ – để thấy tâm trạng của Kiều lúc này: Kiều đang mâu thuẫn giữa hành động và lời nói, giữa lí trí và tình cảm. Kiều trao duyên, nhưng không muốn trao tình.
– Đoạn 2: Tâm trạng của Kiều sau cuộc trao duyên
Linh cảm về cái chết cứ trở đi trở lại trong hồn Kiều; Trong màn độc thoại nội tâm đau đớn, Kiều hướng về người yêu với tất cả sự thương cảm.
Từ nói với bạn Kiều chuyển sang nói với mình, nói với người yêu; từ đau đớn đến khóc, khóc cho chính mình, khóc cho mối tình đầu đẹp đẽ, ngây thơ vừa chớm nở đã tan vỡ.
=> Bằng nghệ thuật miêu tả tinh tế diễn biến nội tâm nhân vật và ngôn ngữ độc thoại sinh động, đoạn trích “Cảnh Duyên” đã phản ánh vẻ đẹp nhân cách của Thúy Kiều thể hiện qua nỗi đau vì tình tan vỡ. Sinh ra để quên mình vì hạnh phúc của những người thân yêu.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Những bài phân tích tâm trạng của Kiều trong đoạn trích Trao duyên hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài phân tích tâm trạng của Kiều trong đoạn trích Trao duyên hay nhất:
Khi tai họa ập đến, Thúy Kiều đã đi theo con đường quen thuộc của người có hiếu: “Để lời thề Hải Minh Sơn/ Làm con trước phải đền ơn sinh thành”, Thúy Kiều lại rơi vào một bi kịch khác, đau đớn và đáng thương hơn. Đoạn trích “Trao duyên” khắc họa sâu sắc tấn bi kịch đó của Thúy Kiều đồng thời cũng khiến ta trân trọng hơn vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách của nàng.
Đêm cuối cùng trước ngày lên đường theo Mã Giám Sinh, Thúy Kiều một mình đối diện với ngọn đèn trong bóng chiều hấp hối đau khổ và chiếc khăn ướt đẫm nước mắt. Tâm trạng “trọn vẹn” như thế , chỉ đến khi Thúy Vân “đến thăm” Kiều mới bộc lộ tình cảm sâu sắc của mình. Người con gái tài sắc ấy không những hiếu thảo với cha mẹ mà trong tình yêu còn là một người tha thiết, sâu sắc và vị tha, đó chính là vẻ đẹp tâm hồn của Thúy Kiều Chuyện gì sẽ xảy ra với nàng nhưng lúc này Kiều đã một lòng một dạ hướng về người mình yêu, điều đó được thể hiện rõ nét qua lời cầu xin tha thiết của nàng với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa
Chiều sâu cuộc đời của Tố Như thể hiện ở cách lựa chọn từ ngữ để diễn tả tâm trạng nhân vật. Trong các từ biểu thị yêu cầu: xin, mượn, phiền,… Nguyễn Du chọn từ cậy, bởi riêng từ này đã hàm chứa hai nội dung: nhờ và tin. “Chịu” chứ không phải là nhận vì nhận là tự nguyện của Vân. Nhưng việc Kiều quay lại nương nhờ em gái là một sự cầu xin, một sự ép buộc, không lấy được, là đặt cả mình và Vân vào một tình huống khó xử. Đó là Vân thay Kiều trả “nghĩa” với Kim Trọng. Trong quan niệm của người trung đại, tình thường gắn liền với nghĩa. Nhưng dẫu sao thì Vân cũng có trách nhiệm và nghĩa vụ: “Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em”. Thúy Kiều vẫn đưa ra những lý lẽ để thuyết phục em gái mình. Tình yêu sâu nặng của Thúy Kiều dành cho Kim Trọng khẳng định vẻ đẹp tâm hồn và nhân cách của nàng, những lời dặn dò, thuyết phục khiến Kiều sống lại kỉ niệm tình yêu với Kim Trọng: “Ngày đã cạn, đêm đánh chén thề”; trao cho Vân những kỷ vật tình yêu: chiếc vành, mảnh mây, cây đàn, nén nhang nguyền,… để chị có mặt trong tình yêu, trong tình cảm của chị với Tràng.
Nhưng càng yêu Kim, Kiều càng rơi vào bi kịch đau khổ. Đó trước hết là bi kịch của tình yêu lứa đôi đang đẹp đẽ, hạnh phúc bỗng chốc tan vỡ, chia lìa. Đoạn thơ dang dở, đứt đoạn này được thể hiện bằng câu thơ mang sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tình”. Hình ảnh ẩn dụ này chúng ta đã từng thấy trong ca dao, hóa ra những nỗi khổ của Kiều không xa lạ gì với những số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của cô vẫn đau đớn và thấm thía hơn bất kỳ lịch sử tình yêu nào trước đây. Một phần vì Thúy Kiều chỉ có thể dành tình cảm cho Vân mà không thể dành tình cảm cho em gái. Cô đã trao cho Vân những kỷ vật tình yêu đẹp đẽ và thiêng liêng. Trong mối tình Kim, Nguyễn Du luôn dành cho người chị chữ “tình” và cho người em chữ “phận”.
Kiều mong rằng qua kỷ vật có thể hiện diện trong tình yêu, trong tâm tư của Kim Trọng: “Mất người còn chút của tin”. Trong thiên cổ tình xưa, nước mắt Mị Nương rơi vào chén trà giải oan cho Trương Chi, còn trong Truyện Kiều, nước mắt của chàng Kim không thể hóa giải nỗi oan của Kiều. Bởi sự trở về với một linh hồn bất tử là sự trở về không gặp gỡ, luôn bị chia cắt bởi hai cõi âm dương: “Sân ga đêm xa mặt em”. Về sau, trong tập “Kim Trọng trở về”, cuộc gặp gỡ Kim – Kiều không còn là cuộc gặp gỡ của tình yêu.
Qua việc khám phá vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách cũng như bi kịch của Thúy Kiều trong đoạn trích: “Trao duyên”, người đọc nhận ra “sự đồng cảm lạ lùng” của nhà đại thi hào dân tộc đối khao khát tình yêu của con người.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài phân tích tâm trạng của Kiều trong đoạn trích Trao duyên hay nhất:
Đoạn trích “Trao duyên” có một vị trí đặc biệt trong kiệt tác “Truyện Kiều” của Nguyễn Du. Về mặt kết cấu, bài thơ đánh dấu một bước ngoặt lớn trong cuộc đời của nhân vật chính Thúy Kiều: bắt đầu cuộc đời lưu lạc, đau khổ. Về chủ đề, bài thơ thể hiện sâu sắc chủ đề bi kịch của tình yêu tan vỡ. Về nghệ thuật, đoạn thơ chứng tỏ tài năng tuyệt vời của Nguyễn Du trong việc miêu tả nội tâm nhân vật.
Diễn biến tâm trạng Thúy Kiều trong đoạn trích Trao duyên qua ba chặng được ví như ba nấc thang tâm lý. Mở đầu là lời yêu cầu khẩn thiết của Kiều với Vân:
“Cậy em, em có chịu lời,
Ngồi lên cho chị lạy rồi sẽ thưa.”
Hai câu thơ cho thấy Kiều vừa van xin vừa tha thiết, như đặt cả niềm tin và hi vọng vào Vân. Giữa muôn vàn từ ngữ thể hiện sự nhờ vả: hỏi, mượn, phiền,… Nguyễn Du đã chọn từ “cậy”. Phải chăng chỉ một chữ “cậy” đã chứa đựng nội dung của một lời nhắn nhủ và tin tưởng? Lại nữa, tại sao “chịu” mà không phải “nhận”, tại sao “tuân lệnh” trước rồi “bảo” sau? Nếu Kiều trình bày sự việc trước, chưa chắn Vân đã nhận lời. Nói “chịu” tức là có ý kiến của người nhận, có sự tự nguyện của Vân. Nhưng Vân có biết thế nào là tự nguyện hay không tự nguyện? Vì thế, nàng đành “chấp nhận”, bởi đây là việc Kiều chủ động cưỡng bức Vân, đẩy Vân vào tình thế không thể chấp nhận được. Đến lúc này, Kiều mới thấu hiểu nỗi khổ của mình và càng hiểu nỗi khổ của em gái mình.
Thúy Kiều không kể dài dòng về hoàn cảnh của mình. Điều gì đã xảy ra là không rõ ràng. Nhưng nỗi bất hạnh của Kiều thì chỉ Vân mới hiểu. Bởi chính Vân là người chứng kiến cả hai biến cố của cuộc đời Kiều: “Khi gặp chàng Kim” và khi “bất kỳ sóng gió”. Mâu thuẫn lớn trong tâm trạng Thúy Kiều lúc này không phải là giữa chữ hiếu và chữ tình. Hóa giải mâu thuẫn giữa hiếu và tình, Kiều đã làm được điều đó, tuy khó khăn nhưng dứt khoát và có phần thanh thản: “Làm con trước phải đền ơn sinh thành”. Vả lại, nếu nói đến chữ hiếu, Kiều không nhất thiết phải “cậy”, phải “lạy”, phải “nói” với mình; hẹn hò, với Vân là trách nhiệm và nghĩa vụ.
Xung đột chủ yếu được thể hiện trong đoạn trích là “xung đột giữa tình yêu đôi lứa và hạnh phúc tan vỡ”. Sự dở dang, đứt gánh này được thể hiện qua một câu thơ mang đậm sắc thái thành ngữ: “Giữa đường đứt gánh tình”. Hình ảnh ẩn dụ “giữa đường đứt gánh” ta đã từng thấy trong ca dao. Hóa ra, những đau khổ của Thúy Kiều không xa lạ gì với số phận của người phụ nữ xưa. Tuy nhiên, bi kịch tình yêu tan vỡ của Kiều vẫn đau đớn hơn bất kỳ lịch sử tình yêu nào trước đây trong văn học.
Sau tám câu mở đầu, Kiều kể cho Vân nghe về nỗi bất hạnh của mình, về việc thấu hiểu tình cảnh khó khăn của nàng, Kiều tiếp tục thuyết phục Vân thay mình trả nghĩa cho Kim Trọng. Kiều nói với Vân bằng những lời tâm sự thể hiện qua những câu thơ mang phong cách thành ngữ: “tình máu mủ”, “khúc hát nước non”, “xương thịt mòn”, “nơi chín suối”. Kiều trói Vân bằng chính máu mủ của mình, xin nàng ban cho mình một chút niềm vui, một chút ân sủng, một chút hương thơm cho tấm thân cao quý:
“Chị dù thịt nát xương mòn,
Ngậm cười chín suối hãy còn thơm lây.”
Trong một khổ thơ, tên Kim Trọng được gọi hai lần, kèm theo những thán từ đau đớn, tuyệt vọng “ôi”, “hỡi”. Câu thơ trên ngắt 3/3 đọc như tiếng nấc, câu dưới ngắt như than thở. Lời thương xót kết thúc bằng lời thân tình, bằng tiếng kêu đau đớn, tuyệt vọng. Tuy nhiên, cuộc tình tan vỡ nhưng khát khao tình yêu được khẳng định. Đó chính là vẻ đẹp cao quý của tâm hồn Kiều, giá trị nhân bản bền vững của “Truyện Kiều”. Đoạn thơ bi tráng, đau thương nhưng không hề thê lương, tăm tối mà ngược lại vẫn ánh lên ánh sáng niềm tin vào tình yêu, vào con người.
Đoạn thơ diễn tả sự khủng hoảng, sóng gió trong lòng cô gái đáng thương Thúy Kiều. Nàng đau khổ quằn quại, là do chính mình sao? Tất cả tấm lòng yêu thương của nàng dành cho người yêu. Tấm lòng vị tha ấy cao đẹp biết bao! Yêu thương con người sâu sắc, mong họ hạnh phúc, chấp nhận mất mát, sẵn sàng hy sinh, tấm lòng ấy đã thực sự lay động trái tim người đọc. Đó cũng chính là nét sáng ngời trong phẩm cách của Thúy Kiều, tạo nên cuộc sông trường tồn với thời gian. Bài thơ cũng cho ta thấy “sự đồng cảm lạ lùng” (Hoài Thanh) của nhà đại thi hào dân tộc đối với những đau khổ và niềm khát khao yêu thương của con người. Qua đoạn trích “Đổi người định mệnh” ta cũng thấy được lối viết nội tâm độc đáo của nhà thơ lớn.
3. Bài văn phân tích tâm trạng của Kiều trong đoạn trích Trao duyên ngắn gọn nhất:
Nguyễn Du là ngôi sao sáng trên bầu trời thơ ca Việt Nam, ông cũng là bậc thầy trong việc miêu tả nội tâm nhân vật. Nguyễn Du viết Truyện Kiều bằng tất cả niềm say mê, ông cũng hóa thân vào từng nhân vật để cảm nhận nỗi khổ của lòng người. Vì vậy, trong nghệ thuật miêu tả nội tâm nhân vật, đoạn Trao Duyên là một trong những đoạn trích miêu tả rõ nhất diễn biến tâm trạng của Thúy Kiều.
Đoạn trích là tiếng lòng đau đớn, tê tái của Thúy Kiều khi phải nói lời chia tay với hạnh phúc. Nàng đã trao duyên cho tôi và nhờ tôi thay nàng trả ơn Kim Trọng. Đoạn trích đã miêu tả đầy đủ và sinh động nhất về diễn biến tâm lí ngổn ngang trong lòng Kiều. Bằng tài miêu tả của mình, Nguyễn Du đã tạo nên một bài thơ về một nàng Kiều đa cảm, đa cảm.
Mở đầu bài thơ ta thấy rõ những lời dịu dàng, ân cần của Thúy Kiều nói với Thúy Vân:
Cậy em em có chịu lời
Ngồi đây cho chị lạy rồi sẽ thưa
Cô không cầu cứu mà “nhờ cậy”. Trong lời Kiều không chỉ có sự tin tưởng mà còn có sự van xin. Từng câu từng chữ ấy khiến ta cảm thấy Kiều là người thông minh.
Nhưng đằng sau đó, ta cũng có thể nhận ra những mong đợi, hi vọng của Kiều. Tuy nhiên, cái hay trong miêu tả nội tâm nhân vật không dừng lại ở đó, Kiều không chỉ dựa vào Vân mà còn “lạy” rồi “thưa”, đó là một nghịch lý. Điều Kiều sắp nói hẳn là một việc lớn, hệ trọng. Kiều đẩy Vân vào tình thế khó xử nhưng Vân vẫn chấp nhận. Tâm lý nhân vật được miêu tả tốt, thể hiện được những suy nghĩ nội tâm sâu sắc của cô.
Giữa đường đứt gánh tương tư
Keo loan chắp mối tơ thừa mặc em
“Đứt gánh tương tư giữa đường” – chỉ với câu này thôi ta đã cảm nhận được cuộc đời đầy bi kịch và éo le của nàng. Nỗi đau, sự xót xa ấy cho thấy Kiều bắt đầu hồi tưởng về những ngày hạnh phúc của mình với Kim Trọng.
Kể từ khi gặp chàng Kim
Khi ngày quạt ước khi đêm chén thề
Sự đâu sóng gió bất kỳ
Hiếu tình khôn lẽ hai bề vẹn hai
Những kỷ niệm về lời hẹn ước và thời gian bên nhau của Thúy Kiều thật khó quên. Ngày vui đến thật nhanh nhưng cũng đi thật nhanh mà ta không thể ngờ. Kiều chưa kịp tận hưởng thì đã vuột khỏi tầm tay.
Có lẽ những kỉ niệm về Kim Trọng sẽ không bao giờ phai trong Kiều. Những ngày hạnh phúc vui vẻ ấy đến nhanh và đi cũng vội. Kiều chưa kịp tận hưởng thì hạnh phúc đã vuột khỏi tay.