Công cuộc cải cách ở Thái Lan vào giữa thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20? Lý do Thái Lan không bị thực dân phương Tây xâm lược? Cuộc cách mạng năm 1932 ở Thái Lan? Quá trình giành lại sự tự quyết hoàn toàn của Thái Lan? Bài học kinh nghiệm từ thắng lợi không trở thành nước thuộc địa của Thái Lan?
Trong suốt lịch sử Đông Nam Á cận đại, Thái Lan là nước duy nhất không bị biến thành thuộc địa. Chắc hẳn bạn sẽ thắc mắc về vấn đề này, vậy hãy tham khảo bài dưới đây để có thêm những kiến thức hữu ích nhé.
1. Công cuộc cải cách ở Thái Lan vào giữa thế kỉ 19 đầu thế kỉ 20:
Cải cách Chulalongkorn thông qua một nhóm lãnh đạo mạnh mẽ với phẩm chất văn hóa hiện đại, áp dụng đúng đắn các biện pháp phù hợp với điều kiện quốc gia của Thái Lan và bãi bỏ nhiều hệ thống cũ lạc hậu.
Chulalongkorn đã áp dụng mô hình phương Tây để thực hiện phong trào cải cách. Trước hết, việc bãi bỏ hệ thống trang trại lương thực (còn được gọi là hệ thống Sakdina) và hệ thống nô lệ, cải cách tư pháp, tài chính và giáo dục, đồng thời thúc đẩy sự sụp đổ và tan rã của nền kinh tế tự nhiên được gọi là bước ngoặt trong lịch sử của Thái Lan.
Đó là một cuộc cải cách thành công đã đưa Chulalongkorn trở thành một trong những vị vua vĩ đại nhất trong lịch sử Thái Lan và là người sáng lập ra nước Thái Lan hiện đại, một số người gọi thời kỳ này là “thời kỳ phục hồi” của Thái Lan. Nó cũng khiến Thái Lan trở thành quốc gia độc lập duy nhất ở Đông Nam Á không trở thành thuộc địa vào thời điểm đó. Nhưng cuộc cải cách này không làm thay đổi cơ bản hệ thống chính trị truyền thống của Thái Lan, và Thái Lan vẫn là một chế độ quân chủ chuyên chế phong kiến
2. Lý do Thái Lan không bị thực dân phương Tây xâm lược:
Thái Lan là nước duy nhất không bị biến thành thuộc địa, vì giỏi lợi dụng mâu thuẫn giữa các cường quốc, khéo léo sử dụng sách lược cân bằng, trở thành đối tác chiến lược của Anh, Pháp, vùng đệm trên bán đảo Đông Dương, cứu nước khỏi họa diệt vong. Chiến tranh thế giới thứ 2 áp dụng chiến lược liên minh với Nhật Bản, khi chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Thái Lan tuyên chiến với Anh và Mỹ. Với thân phận nước bại trận, trở thành đồng minh thân cận duy nhất của Mỹ trên bán đảo Đông Dương, được hưởng quy chế “đồng minh lớn ngoài NATO”.
Năm 1652, Xiêm La cử đại sứ sang nhà Thanh triều cống, bắt đầu mối quan hệ bá chủ giữa nhà Thanh với Thái Lan (Xiêm La), kéo dài đến cuối thế kỷ 19, khi chính quyền nhà Thanh đã vô cùng suy yếu. Từ giữa thế kỷ 19, Anh, Pháp, Mỹ, Đức, Ý liên tiếp ký với Xiêm các hiệp ước bất bình đẳng, Xiêm trở thành nửa thuộc địa của các nước thực dân phương Tây. Năm 1896 Anh, Pháp ký hiệp ước, quy định Xiêm là Miến Điện thuộc Anh và Ấn Độ thuộc Pháp.
Vào nửa sau thế kỷ 19, các cường quốc thực dân phương Tây đã điên cuồng phân chia phạm vi ảnh hưởng và chia cắt các lãnh thổ thuộc địa ở Đông Nam Á và sáp nhập Miến Điện vào Liên bang Ấn Độ thuộc Anh. Pháp chiếm Việt Nam và cưỡng bức sáp nhập Miến Điện để thành lập “Liên bang Đông Dương” của Pháp. Lúc này, thực dân Anh và Pháp đang đối đầu nhau ở trung tâm bán đảo Đông Dương.
Để tránh đối đầu trực tiếp với Anh trong việc phân chia quyền lợi ở Đông Nam Á, chính phủ Pháp đã từng đề xuất với chính quyền Anh về việc trung lập hóa Xiêm – “Duy trì một Vương quốc Xiêm hùng mạnh, độc lập, với biên giới rõ ràng ở cả hai bên, tạo ra một hàng rào cố định giữa lãnh thổ Anh và lãnh thổ Pháp ở Đông Dương, và một thỏa thuận như vậy sẽ có lợi cho cả hai bên, ngăn ngừa xung đột giữa hai nước. Nếu không, sẽ có những rắc rối có thể xảy ra.” Vì lợi ích của mình, Anh đã thông báo cho Pháp vào tháng 8 cùng năm, bày tỏ “sự đánh giá cao” đối với việc thành lập một Vương quốc Xiêm hùng mạnh. Kết quả là, Xiêm La độc lập, nổi lên như một quốc gia vùng đệm, bị mắc kẹt giữa sự thỏa hiệp lẫn nhau về cân bằng quyền lực giữa Anh và Pháp và cuộc đấu tranh công khai và bí mật để giành lấy sự trỗi dậy của mình.
Tháng 10 năm 1893, vương triều Băng Cốc buộc phải ký với Pháp “Hiệp ước Xiêm La”, giao phần lãnh thổ Lào ở bờ Đông sông Cửu Long cho Pháp và bồi thường cho Pháp 3 triệu quan. Lúc này, Pháp có lợi thế so sánh – liên minh với Nga. Vào thời điểm này, Anh phải đối mặt với áp lực kép là từ chối Nga Sa hoàng ở phía bắc và chống lại Pháp ở phía đông, và không có ý định quan tâm đến tình hình ở Xiêm. “Hiệp ước Xiêm La” là sản phẩm của sự cân bằng quyền lực giữa Anh và Pháp và sự thỏa hiệp lẫn nhau, sẽ không cho phép Xiêm La vốn thực sự bị bao vây ở giữa, rơi vào tay bất kỳ quốc gia nào của Anh và Pháp cũng là một đảm bảo quan trọng rằng Xiêm La sẽ không trở thành thuộc địa.
3. Cuộc cách mạng năm 1932 ở Thái Lan:
Sự trỗi dậy của Nhật Bản trong thế kỷ 20 đã truyền cảm hứng cho Thái Lan, vốn bị người da trắng áp bức về mặt tinh thần, nên họ cảm thấy gần gũi với Nhật Bản dưới tư tưởng là người châu Á. Cả hai đều nhất quán trong lập trường chống lại người da trắng ở Châu Âu và Châu Mỹ, và Xiêm cũng hy vọng sử dụng sức mạnh của Nhật Bản để khôi phục chủ quyền đối với các lãnh thổ mà Pháp đã nhượng lại trước đây.
Từ năm 1929 đến năm 1932, khi cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới bùng nổ, Xiêm chịu ảnh hưởng sâu sắc, sản xuất sa sút, ngân khố trống rỗng dẫn đến mâu thuẫn giai cấp, mâu thuẫn giữa các nhóm chính trị ngày càng gay gắt. Đảng Nhân dân đưa ra khẩu hiệu “lật đổ chế độ độc tài của giới quý tộc” và “thiết lập chế độ quân chủ lập hiến”, và phát động một cuộc đảo chính vào sáng sớm ngày 24 tháng 6. Sau đó, nhà vua tuyên bố chấp nhận chính phủ hợp hiến, và ký hiến pháp tạm thời do Đảng Nhân dân soạn thảo tại Bangkok vào ngày 27 tháng 6, và Xiêm La trở thành một chế độ quân chủ lập hiến.
Sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc đã dẫn đến sự cai trị trực tiếp của quân đội vào năm 1938, và những người lính của họ lần lượt xuất hiện trên mặt trận chính trị. Vào thời điểm đó, trong quân đội và xã hội Thái Lan xuất hiện một trào lưu tư tưởng chống Anh và Pháp, được gọi là Phong trào khôi phục đất đai đã mất.
4. Quá trình giành lại sự tự quyết hoàn toàn của Thái Lan:
Sau khi Chiến tranh châu Âu bùng nổ năm 1939, mặc dù chính phủ Thái Lan tuyên bố tuyệt đối trung lập nhưng vẫn chờ thời cơ thu hồi lãnh thổ, mãi đến năm 1941, sau thất bại của Pháp, các nhà lãnh đạo và tư tưởng dân tộc chủ nghĩa của Thái Lan mới tin rằng đã đến lúc. Kể từ đó, các cuộc biểu tình chống Pháp quy mô lớn nổ ra ở Bangkok và một số thành phố ở biên giới đông bắc Thái Lan và Đông Dương thuộc Pháp, tổ chức “Nhóm máu Thái” cũng được hình thành, đòi “đánh chiếm trở lại”các lãnh thổ đã bị Pháp chiếm.
Sau năm 1939, chiến tranh ngày càng căng thẳng, Nhật Bản, Anh, Pháp, Mỹ ra sức thu phục Thái Lan, ra sức thiết lập quan hệ gần gũi hơn với Thái Lan, tuy nhiên do Pháp không chịu trả lại lãnh thổ ở bờ Tây sông Mê Công. Thái Lan không thương lượng với Pháp để trao trả lãnh thổ, tuyên chiến với Pháp và mở cuộc tấn công vào Biên giới Pháp-Đông Dương. Các lãnh thổ Campuchia ở phía bắc hồ Tonle Sap và phía tây hồ Tonle Sap đã được nhượng lại cho Thái Lan.
Sau khi Chiến tranh Thái Bình Dương bùng nổ, Thái Lan tuyên chiến với Mỹ và Anh trên Ngày 25 tháng 1 năm 1942. Tuy nhiên, ở Thái Lan ngày càng có nhiều khác biệt, phong trào “Thái Lan tự do” đang nhanh chóng lan rộng khắp Thái Lan, phản đối chính phủ liên minh với Nhật Bản.
Ngày 15 tháng 8 năm 1945, Nhật Bản tuyên bố đầu hàng vô điều kiện. Chính phủ Thái Lan tuyên bố rằng chiến tranh của chính phủ Phibun Songkham năm 1942 với Vương quốc Anh và Hoa Kỳ là trái với nguyện vọng của người dân Thái Lan, đồng thời vi phạm Hiến pháp và luật pháp Thái Lan. Quốc hội Thái Lan cùng ngày cũng thông qua nghị quyết tuyên bố tuyên bố chiến tranh năm đó là vô hiệu, đồng thời bãi bỏ mọi hiệp ước và giao ước đã ký với Nhật Bản sau ngày 8 tháng 12 năm 1941.
5. Bài học kinh nghiệm từ thắng lợi không trở thành nước thuộc địa của Thái Lan:
Như vậy chính sự khôn khéo trong chiến lược ngoại giao, lợi dụng sự cạnh tranh của các nước đế quốc cùng những cải cách quan trọng trong nước đã giúp Thái Lan trở thành quốc gia duy nhất không bị xâm lược ở Đông Nam Á. Trên cơ sở thành công của Thái Lan có thể rút ra bài học kinh nghiệm quý báu sau:
Đó là sử dụng một chính sách ngoại giao khôn khéo trên cơ sở đánh giá tình hình trong và ngoài nước, phân tích kĩ lưỡng yếu tố bên ngoài trên cơ sở tận dụng được tiềm lực trong nước. Và để làm được điều đó không thể thiếu vai trò lãnh đạo tài tình, sáng suốt của chính quyền.