Thủ Đô Hà Nội đã trải qua ngàn năm văn hiến với những giai đoạn lịch sử cùng biết bao thăng trầm. Hãy cùng chúng tôi tìm hiểu tên gọi, thời gian của Thủ đô Hà Nội qua bài viết dưới đây nhé
1. Hà Nội được thành lập khi nào?
1.1. Thời gian thành lập Hà Nội:
Năm 1831, vua Minh Mạng tiến hành cuộc cải cách hành chính lớn nhất trong lịch sử phong kiến Việt Nam, bãi bỏ Bắc Hà thành (gồm 11 trấn và 1 phủ) Bắc Hà, thành lập tỉnh Hà Nội. Như vậy, Hà Nội trở thành một tỉnh như 30 tỉnh thành khác của Việt Nam.
1.2. Quá trình lịch sử hình thành Hà Nội:
Tỉnh Hà Nội gồm 4 phường: Hoài Đức, Thường Tín, Ứng Hòa, Lý Nhân. Theo bản đồ hiện nay, tỉnh Hà Nội xưa có 5 huyện thuộc tỉnh Hà Nam là Lý Nhân, Kim Bảng, Duy Tiên, Bình Lục và Thanh Liêm. Tuy số đời vua sau Minh Mạng có thay đổi về tổng, xã, thôn nhưng về cơ bản, phủ Hà Nội vẫn gồm 4 dinh như dưới thời Minh Mạng.
Tuy nhiên, đến năm 1875, tỉnh Hà Nội không còn nguyên vẹn. Trước sức ép của thực dân Pháp, vua Tự Đức đã phải cắt hơn 18 ha đất ở huyện Thọ Xương cho chúng lập Khu lãnh sự (còn gọi là khu nhượng địa Đồn Thủy, nay tương ứng với diện tích của Bệnh viện Trung ương Quân đội 108).
Năm 1882, Pháp tấn công Hà Nội lần thứ hai rồi chiếm huyện Thọ Xương, địa giới hành chính tỉnh Hà Nội tiếp tục thay đổi. Năm 1883, chúng lập Công sứ ở phố Hàng Gai, thành lập các cơ quan quản lý, đến năm 1885 xây dựng nhà làm việc với mục đích bình định cả Bắc Kỳ.
Những việc làm này cũng là bước chuẩn bị cho sự ra đời của Phố Tô giới tại Hà Nội. Tại cuộc họp của Hội đồng bảo hộ Bắc Kỳ ngày 2 tháng 5 năm 1886, Công sứ Paul Bert tuyên bố: “Hà Nội sẽ ngày càng trở thành một thành phố châu Âu. Nhà cửa, chợ búa, lò mổ. Để chỉ đạo công việc này cần phải có một người coi sóc đặc biệt” chính phủ cho Hà Nội, chính phủ này chỉ có thể là ủy ban thành phố.” Tuyên bố đó cho thấy chính phủ Pháp đang thực hiện ý đồ biến một phần tỉnh Hà Nội thành nhượng địa.
Ngày 19-7-1888, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định, theo đó đứng đầu thành phố Hà Nội và Hải Phòng là Thống đốc kiêm Chủ tịch Hội đồng thành phố. Chức này dành cho người Pháp – do Thống sứ Bắc Kỳ đề nghị và Toàn quyền Đông Dương ra quyết định bổ nhiệm. Ngoài ra, có hai cấp phó giúp việc Giám đốc. Riêng Hội đồng thành phố có 16 người, nhưng chỉ có 4 người Việt Nam, còn lại là người Pháp. Nghị định cũng quy định: Hội đồng thành phố mỗi năm họp 4 lần để quyết định các vấn đề và chỉ có giá trị khi được Thống sứ Bắc Kỳ phê chuẩn.
Ngày 1 tháng 10 năm 1888, vua Đồng Khánh ra chiếu chỉ cắt toàn bộ huyện Thọ Xương và một phần nhỏ huyện Vĩnh Thuận cho Pháp đặt làm nhượng địa. Thực ra, sắc lệnh đó chỉ nhằm hợp pháp hóa các quyết định mà người Pháp đã đưa ra trước đó. Trong thời gian này, Thống sứ Bắc Kỳ đã vẽ bản đồ địa giới thành Hà Nội, theo đó ranh giới phía bắc của thành Hà Nội là hồ Trúc Bạch, phía nam giáp Đồn Thủy, phía tây giáp thành Hạ. Tường. Nội và Văn Miếu. Diện tích thời kỳ đầu là 945 ha, dân số 100.000 người. Hội đồng thành phố cũng ban hành một biểu tượng hình tròn, hai bên là hai con rồng, ở giữa nhô ra một thanh kiếm, phía trên là một mặt trời có tường bao quanh màu đen. Không rõ người Pháp hay người Việt vẽ, nhưng huy hiệu khá tượng trưng khi sử dụng truyền thuyết và địa danh lịch sử Thăng Long.
Tuy đã trở thành kinh thành nhưng Hà Nội lúc đầu vẫn là một phủ bảo hộ, chưa thực sự là một thuộc địa nên vẫn đặt phủ ở huyện Thọ Xương, thủ phủ ở thôn Tiền Thị (nay ứng với ngõ Ngõ Huyện).
Ngày 26-1-1896, Toàn quyền Đông Dương ra Nghị định do Chánh văn phòng Phủ Toàn quyền J. Foures ký dời trụ sở tỉnh Hà Nội về đất làng Cầu Đơ, thuộc tổng Thanh Oai Thượng, huyện Thanh Oai.
Một biến cố lớn xảy ra vào năm 1902 đã làm thay đổi địa vị của thành phố khi Quốc hội Pháp quyết định Hà Nội là thủ đô của Liên bang Đông Dương bao gồm: Trung Kỳ, Bắc Kỳ, Lào và Campuchia. Thủ phủ liên bang không thể trùng tên với một tỉnh nên ngày 3-5-1902, Toàn quyền Đông Dương Paul Doumer ra Nghị định đổi tên tỉnh Hà Nội thành tỉnh Cầu Đỏ. Vì Cầu Đơ là tên Nôm của một làng, nay được đặt cho một tỉnh lớn gần thủ phủ liên bang Đông Dương, nên có nhiều ý kiến đề nghị Toàn quyền Đông Dương đổi tên. Và ngày 6-12-1904, Toàn quyền ra Nghị định đổi tên Cầu Đơ thành Hà Đông.
Đầu thế kỷ 20, nhà Nguyễn chỉ là bù nhìn nên khi mở rộng thành phố về phía Nam và phía Tây, chính quyền đã bỏ qua Nam triều, họ quyết định mọi việc.
2. Thành phố Hà Nội trở thành thủ đô nước Cộng Hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khi nào?
Sau khi chiến thắng mùa xuân năm 1975, đất nước Việt Nam đã hoàn toàn giải phóng. Thế nhưng sau một thời gian nhiều phải chịu nhiều tổn thất do chiến tranh để lại, hậu quả của chiến tranh không thể khắc phục trong một sớm một chiều bởi vậy, tình hình kinh tế chính trị đất nước vẫn đang còn khá phức tạp. Đến năm 1976, tại kỳ họp thứ nhất Quốc hội khóa IV, Hà Nội vinh dự được chọn là thủ đô của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam cho đến ngày nay.
3. Những tên gọi trước của Thủ đô Hà Nội:
3.1. Long Đỗ:
Tương truyền, khi Cao Biền nhà Đường xây thành Đại La vào năm 866, ông thấy một vị thần xuất hiện, tự xưng là Thần Long Đỗ. Vì vậy, trong sử sách, Thăng Long thường được gọi là đất Long Đỗ.
Năm Quang Thái thứ 10 (1397) đời Trần Thuận Tông, Hồ Quý Ly có ý cướp ngôi nhà Trần nên muốn dời đô vào An Tôn, Phủ Thanh Hóa. Khu mật viện do Nguyễn Như Thuyết dâng điển rằng: “Xưa nhà Chu, nhà Ngụy dời đô đều gặp chuyện không hay, đất Long Đỗ nay có núi Tản Viên, có sông Lô Nhĩ (sông Hồng ngày nay), núi cao sông rộng, đất sâu, đất rộng, bằng phẳng Điều đó chứng tỏ Long Đỗ xưa là tên gọi của Hà Nội.
3.2. Tống Bình:
Tống Bình là tên gọi của các vị vua phương Bắc cai trị các triều đại Tùy (581-618) và Đường (618-907). Trước đây, đại bản doanh của họ ở khu vực Long Biên (Bắc Ninh ngày nay). Đến đời Tùy, ông dời đến Tống Bình.
3.3. Đại La:
Đại La hay Đại La Thành, là tên của tòa thành ngoài cùng bao quanh kinh đô.
Theo kiến trúc cổ, kinh thành thường có “Tam thành”: Trong cùng là Tử Cấm Thành (tức tường màu đỏ tía) nơi vua và hoàng tộc ở, giữa là Hoàng Thành và ngoài cùng là Đại La Thành.
Năm 866, Cao Biền cho xây Đại La Thành rộng và kiên cố hơn trước. Từ đó, thành này được gọi là thành Đại La.
Trong Chiếu dời đô năm 1010 của vua Lý Thái Tổ có viết: “…Hơn nữa, thành Đại La, cố đô của Cao Vương (tức Cao Biền) nằm giữa trời và đất. ..” (Toàn Thư, Tập I, H, 1993, tr. 241).
3.4. Thăng Long:
Về ý nghĩa của tên gọi Thăng Long, chúng ta thường giải thích rằng: Thăng có nghĩa là bay lên, Thăng Long có nghĩa là rồng bay. Trên thực tế, có nhiều cách viết và giải nghĩa từ “thăng” trong chữ Hán.
Với cách viết đầu tiên, từ “sang” có nghĩa là “đi lên, đi lên”, tiếp theo là nghĩa đầu tiên của nó là cây gậy, một dụng cụ để đo sức mạnh (nghĩa đen: “chương đầu: cùng nhau” chiến đấu” “) .
Cách viết thứ hai: có chữ Nhật đặt lên trên chữ Thăng nghĩa là mặt trời mọc và cũng có nghĩa là “đi lên”, giống như chữ Thắng ở cách viết thứ nhất.
Thăng Long, kinh đô mới của Lý Công Uẩn, được ghi trong Đại Việt sử ký toàn thư, với chữ “Thăng” trong tiếng Nhật, và do đó bao hàm hai nghĩa: “Rồng bay lên”, và “Rồng (bay)” trong nắng “cao”.
Đặt tên Thăng Long với cách viết như trên, vừa ghi việc vua Lý Thái Tổ thấy rồng xuất hiện ở vùng đất chọn làm kinh đô mới, đồng thời lại có sức mạnh thần kỳ, là điềm tốt của giống Rồng, rất gần. . . . . với con người. Người Việt Nam xưa nay luôn coi mình là “con Rồng Cháu Tiên”.
Điều đáng chú ý là các từ điển tiếng Hán thông dụng như Từ Nguyên, Từ Hải (Từ Nguyên xuất bản năm 1947, Từ Hải xuất bản năm 1967, tôi không biết các lần xuất bản sau có khác không) đều không có chữ Thăng trong cả hai hình thức của Win. Riêng Hán tự điển (tập 5, Đài Bắc 1967, trang 208) thì trong chữ “Thăng” là chữ “Thăng” ở dạng viết thứ nhất nói trên với chữ kép “Thăng Long” nhưng nó là danh từ chung và danh từ riêng được chia sẻ. Như vậy, có thể thấy cái tên Thăng Long với chính tả được ghi trong sử cũ là địa danh hoàn toàn do người Việt đặt ra.
3.5. Đông Đô:
Sách Đại Việt sử ký toàn thư cho biết: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Sửu (1397), ông lấy Phó tướng Lê Hán Thương (tức Hồ Hán Thương), coi việc triều đình là Đông Đô” ( Toàn thư) số – tr.192) . Trong bộ Khâm Định Việt Sử Thông Giám Cương Mục, Khâm sứ nhà Nguyễn ghi: “Đông Đô tức là Thăng Long, Thanh Hóa thuở ấy gọi là Tây Đô, Thăng Long là Đông Đô” (Cương Mục – Tập 2, H. 1998) , tr.700).
3.6. Đông Quan:
Đây là tên gọi Thăng Long do các quan nhà Minh đặt ra với hàm ý để phân biệt kinh đô của nước ta, vừa được ví như “cửa ngõ phía đông” của nhà nước phong kiến Trung Quốc. Theo sử cũ, năm 1408, quân Minh đánh bại Hồ Quý Ly và con trai, đóng đô ở thành Đông Đô, đổi tên là Đông Quan.
Tháng 12 năm Mậu Tý (1408), Giản Định Đế dặn quân: “Tận dụng cơ hội chẻ tre, đánh trúc như sét đánh, không thể cản nổi, nếu đánh thành Đông Quan thì các ngươi nhất định sẽ phá được” (Toàn Thư, Sđd – Tập 2, tr. 244).
3.7. Đông Kinh:
Sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cho biết sự ra đời của tên gọi này như sau: “Mùa hạ tháng 4 năm Đinh Mùi (1427), vua (tức Lê Lợi) từ sơn trang ở Bồ Đề dời về kinh Thành Đông Kinh, đại xá đổi niên hiệu là Thuận Thiên, đặt nước là Đại Việt, định đô ở Đông Kinh, ngày 15 vua lên ngôi ở Đông Kinh, tức là kinh thành Thăng Vì Thanh Hóa có Tây Đô, nên kinh đô Thăng Long gọi là Đông Kinh” (Toàn thư, số 2, tr. 293).