Bạch Đằng Giang phú là một bài phú ghi lại những chiến công hiển hách của dân tộc nước nhà, hãy cùng chúng tôi tìm hiểu qua những bài thuyết minh sau đây nhé
1. Dàn ý thuyết minh Bạch Đằng giang phú:
Mở bài: giới thiệu tác giả tác phẩm
Thân bài:
Nhiều tác giả đã viết về đề tài sông Bạch Đằng nhưng nổi tiếng nhất là Trương Hán Siêu với Phú sông Bạch Đằng.
Không rõ năm sáng tác, chắc khoảng 50 năm sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên.
Phú sông Bạch Đằng có đặc điểm cơ bản là phú thể. Bố cục của Phú sông Bạch Đằng của Trương Hán Siêu cũng giống như bố cục của Phủ nói chung.
Bài văn gồm 64 câu với độ dài khác nhau bao gồm: mở bài, giải thích, cảm nhận và kết luận.
Nội dung: thể hiện lòng yêu nước, niềm tự hào dân tộc trước chiến thắng Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất và truyền thống đạo lý, nhân nghĩa của dân tộc Việt Nam. Tác phẩm chứa đựng những tư tưởng nhân văn cao cả, đẹp đẽ qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử.
Nghệ thuật: liệt kê, lập luận chặt chẽ, văn xuôi hỗn hợp, từ ngữ giàu sức gợi, v.v.
Kết bài: đánh giá lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật.
2. Những bài thuyết minh về Bạch Đằng giang Phú hay nhất:
2.1. Bài mẫu 1 – Bài thuyết minh về Bạch Đằng giang phú hay nhất:
Trương Hán Siêu sinh năm (?-1354), Tự là Thăng Phủ, người làng Phúc An, huyện Yên Ninh (nay thuộc thành phố Ninh Bình). Ông vốn là khách của Trần Hưng Đạo, một danh sĩ thời Trần. Năm 1351, ông được thăng Tham mưu trưởng. Khi mất, ông được truy tặng Thái Bảo, Thái Phó và thở hơi tại Văn Miếu (Hà Nội). Trương Hán Siêu được người đời đánh giá là người ngay thẳng, phóng khoáng, tâm hồn lãng mạn, thích ngao du, tìm danh lam thắng cảnh cho riêng mình. Và ông đã đến Phú sông Bạch Đằng để chiêm ngưỡng cảnh sắc thiên nhiên nơi đây.
Như chúng ta đã biết, Phú sông Bạch Đằng là một phụ lưu của con sông đổ ra biển Đông giữa Quảng Ninh và Hải Phòng, nơi ghi dấu những chiến công lịch sử của dân tộc, trong đó đáng nhớ nhất là chiến thắng quân Ngô. Năm 938, ông đánh bại Nam Hán. và Trần Quốc Tuấn năm 1288 đánh tan quân Mông – Nguyên.
Tác phẩm “Phú sông Bạch Đằng” viết bằng chữ Hán đã được Bùi Văn Nguyên dịch thành công. Phú là thể loại văn cổ dùng để tả phong cảnh, phong tục hay khí chất. Mỗi thẻ thường bao gồm bốn phần. Trong bài Phú sông Bạch Đằng cũng không ngoại lệ, phần đầu của bài này từ đầu đến giờ tiếc rằng vết tích trong lòng còn sót lại, phần này giới thiệu nhân vật khách khi du ngoạn trên sông Bạch Đằng. Với câu “Khách” trong bài thơ, có một người mà nhà cao có ghế, trưa hè nóng nực, áo ngắn, nước trong. Cái “khách” ở đây Mạch Đình Chi đã thể hiện tấm lòng, chí khí và khí phách cao thượng của một nhà Nho ở đời. Trương Hán Siêu là một danh nhân nổi tiếng, chín câu đầu cho thấy Trương Hán Siêu là người hiểu rộng, chí lớn, sống phong lưu, thích tiêu xài xa hoa. tinh thần tự do. Đêm thì “chơi với trăng” và “sớm gõ thuyền đợi Vũ Nguyệt”. Những danh lam thắng cảnh trong bài như Nguyên Tượng, Cửu Giang, Ngũ Hồ, Tam Ngô, Bách Việt… đều thuộc đất nước Trung Hoa rộng lớn, ở đây chỉ mang ý nghĩa tượng trưng thể hiện một nhân cách, một tâm thế thích đi du lịch như một thú vui trong cuộc sống, tự hào về thói quen “giang hồ” của mình, bên cạnh đó có câu thơ:
Đầm vân mộng chứa vài trăm dạ cũng nhiều
Bát ngát song kình muôn dặm
Thướt tha đuôi trĩ một màu
Vừa nói vẻ đẹp hùng vĩ, bao la, vừa nói cảnh đẹp là một danh lam thắng cảnh của đất nước. Qua đoạn hai, “từ đoạn sau cho đến khi gặp ngang hàng Mạnh Tân: như vương sư họ Lã”. Cuộc gặp gỡ bên sông và những câu chuyện của những bô lão, những người lớn tuổi đón khách rất chu đáo và mến khách. Những người lớn tuổi là những người kể chuyện và bình luận về những chiến công cổ xưa. Đặc biệt hơn, các bô lão cũng chính là những người đã từng tham chiến và nhân vật “Khách” đã đối thoại để bày tỏ tâm tư, tình cảm của mình với các bô lão xuất hiện ở giữa nhân vật “Khách”. Với giọng hào hùng, rõ ràng và sôi nổi như thể cuộc chiến đang diễn ra. Thực sự là một nguồn cảm hứng cho những người tham gia. Phần thứ ba là phần tiếp theo cho đến khi bộ sưu tập hàng ngàn anh hùng độc đáo được vinh danh. Những lời nhận xét của những người lớn tuổi nêu bật những chiến công và tài năng lừng lẫy, được coi là một lời tuyên bố của sự thật. Phần bốn là phần còn lại. Đây là lời nhận xét của một nhân vật khách, đây là lời kể tiếp của các bô lão, nó là bài ca ngợi sự sáng suốt của thánh quân, ca ngợi giá trị của những chiến công, đem lại thái bình muôn thuở. Tiếp tục bình luận của những người lớn tuổi về lịch sử. Hai câu cuối của bài ca dao này là lời đúc kết của một sự thật về mối quan hệ giữa trái đất nguy hiểm và những con người tài hoa.
Qua bài thơ “Phú sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu là tác phẩm tiêu biểu của nền văn học yêu nước và là niềm tự hào dân tộc, tự hào về truyền thống đạo lí và nhân nghĩa sáng ngời của dân tộc, đồng thời thể hiện tư tưởng nhân văn cao cả, đẹp đẽ qua việc đề cập đến vai trò, vị trí của con người.
2.2. Bài mẫu 2 – Bài thuyết minh về Bạch Đằng Giang phú hay nhất:
Văn học thời Lý – Trần, ngoài áng văn cổ hùng văn “Bình Ngô đại cáo” của Nguyễn Trãi, “Hịch tướng sĩ” của Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, không thể không kể đến “Hịch tướng sĩ”, phú “Sông Bạch Đằng” của Trương Hán Siêu.
Trương Hán Siêu, tự Thăng Phủ, hiệu Đôn Tàu, sinh năm không rõ, chỉ biết ông mất năm 1354. Quê ông ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên (nay thuộc thị xã Ninh Bình, tỉnh Ninh Bình). ). Cái lọ). . . ). Ông vốn là môn khách của Trần Hưng Đạo, có công trong hai cuộc kháng chiến chống quân Nguyên xâm lược lần thứ hai (1285) và lần thứ ba (1288) nên được tiến cử vào triều đình. Cuộc đời làm quan của ông trải qua 4 đời vua Trần: Anh Tông (1293-1314), Minh Tông (1314-1329), Hiến Tông (1329-1341), Dụ Tông (1341-1369). Lúc bấy giờ, Trương Hán Siêu là một học giả uyên bác và là người đầu tiên phê phán Phật giáo, mở đường cho Nho giáo tiến lên. Năm 1353, ông nhận chiếu trấn thủ Hóa Châu (Huế), sai người đắp thành, đắp lũy, mưu đánh quân Chiêm. Năm 1354, ông nghỉ bệnh nhưng trên đường ra Bắc thì mất trước khi về nước. Sau đó, ông được phong làm Thái phó và được thờ ở Văn Miếu, Thăng Long. Sau khi ông mất, Trương Hán Siêu được truy tặng chức Thái phó và được đưa vào thờ tại Văn Miếu ngang hàng với Chu Văn An và các bậc hiền triết khác.
Trương Hán Siêu sáng tác khá nhiều, gồm nhiều thể loại như luật, thơ, phú, văn xuôi, tất cả đều viết bằng chữ Hán. Ông còn để lại bốn bài thơ và ba bài thơ “Dục thủy khắc thạch”, “Linh tế thập niên”, “Khai Nghiêm tự bi”, “Bạch Đằng giang phú”,… đều là những tác phẩm nổi tiếng. Trong đó, “Bạch Đằng giang phú” là tác phẩm tiêu biểu nhất của ông và cũng là tác phẩm nổi tiếng nhất trong số Hán văn đời Trần còn lại đến ngày nay. Bài hát gồm 32 bài, tổng cộng có 2 bài, nói về vẻ đẹp hùng vĩ của cửa biển Bạch Đằng và nhắc lại những chiến công chống giặc ngoại xâm gắn liền với địa danh này.
Không biết bài “Phú sông Bạch Đằng” được viết vào năm nào, có lẽ khoảng 50 năm sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông – Nguyên. Bài viết về sông Bạch Đằng, dòng sông ghi dấu bao chiến công hiển hách trong sự nghiệp chống giặc ngoại xâm của dân tộc ta, từ thời Ngô Quyền chống quân Nam Hán đến thời Trần chống quân Mông – Nguyên – đội quân hùng mạnh của phương Bắc. Tuy viết theo thể cổ, có vần nhưng câu văn tương đối tự do, không gò bó theo khuôn phép. Bài phú là những dòng cảm xúc hoài niệm của tác giả về chiến công lừng lẫy của quân dân nhà Trần trên sông Bạch Đằng vào thời điểm nhà Trần suy vong. Tác phẩm vừa chứa chan niềm tự hào vừa đau thương, đồng thời thể hiện triết lý về sự biến đổi, biến thiên và luân chuyển của tạo hóa. Bài chia làm hai phần: độc thoại với khách và đối thoại giữa khách với người lớn tuổi bên sông. Kết cấu bài phong phú tạo thành hai tuyến nhân vật. Các nhân vật khách cũng là nhân bản của tác giả và nhân vật tập thể các bô lão địa phương xuất hiện với tư cách là những chủ thể giàu cảm xúc, những nhân vật xưa có thể là có thật – họ là những người mà tác giả gặp trên đường đi đến tiêu chí, thậm chí họ có thể là những người đã từng trải qua chiến tranh trong quá khứ. Nhiều người lao động trên dòng sông lịch sử, nhưng cũng có thể họ chỉ là những nhân vật hư cấu. Xây dựng nhân vật, tạo dựng đối thoại là cách để tác giả gián tiếp bày tỏ suy nghĩ của mình về đất nước, con người, về dòng sông lịch sử. Chiến thắng Bạch Đằng Giang được miêu tả như một bản anh hùng ca. Tiếng trống trận, tiếng gươm giáo như hòa quyện trong niềm tự hào kiêu hãnh, rồi lắng lại trong suy nghĩ.
“Đến sông đây chừ hổ mặt
Nhớ người xưa, chừ lệ chan”
Lời ca của các bô lão là lời khẳng định về sự tồn tại vĩnh cửu của núi rừng lịch sử và những chiến công hiển hách nơi đây, đồng thời là sự tồn tại vĩnh hằng của chân lý. Ca từ của “Khách” (liên tục) cũng tiếp nối niềm tự hào đó, đồng thời thể hiện quan niệm vững vàng về vai trò của con người trong việc “cầm máy”. Đây là một quan niệm tiến bộ và rất nhân văn. Về giá trị nội dung: “Phú Sông Bạch Đằng” đã thể hiện lòng tự hào dân tộc và lòng yêu nước trước chiến công trên sông Bạch Đằng, đồng thời ca ngợi truyền thống anh hùng bất khuất, truyền thống chính nghĩa, nhân nghĩa. Tác phẩm còn chứa đựng tư tưởng nhân văn cao cả, đẹp đẽ thông qua việc đề cao vai trò, vị trí của con người trong lịch sử. Về nghệ thuật, bài sử dụng chọn lọc chi tiết, hình ảnh hoài cổ kết hợp với đan xen lối viết, hình thức lập luận phản bác, đặc biệt là việc sáng tạo hình tượng nhân vật, nhân vật “khách”, những “bô lão”, những nhân vật đại diện cho hiện tại, những nhân chứng lịch sử và trong mỗi nhân vật đều có cái tôi của tác giả, cái tôi anh hùng với tâm hồn nhạy cảm, tình yêu đối với lịch sử, đối với đất nước. Đồng thời, đây cũng là đỉnh cao của nghệ thuật làm giàu trong văn học trung đại Việt Nam.
Nền văn học nước nhà đã hình thành một cách tự nhiên dòng thơ Bạch Đằng. Với “Bạch Đằng sông giàu khúc hát”, Trương Hán Siêu đã đóng một “cột” sáng ngời trên dòng thơ bất tận ấy để con cháu đời đời ngưỡng mộ.
3. Bài thuyết minh về Bạch Đằng Giang phú ấn tượng nhất:
Là một nhà văn không chỉ học giỏi, có tài văn chương, Trương Hán Siêu còn giàu lòng yêu nước. Điều đó được thể hiện rõ nét và đầy đủ trong tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” mà ông để lại cho nền văn học Việt Nam.
Trong lịch sử văn học Việt Nam, có rất nhiều tác giả lớn đã để lại những tác phẩm bất hủ như Nguyễn Trãi với Bình Ngô Đại Cáo, Nguyễn Du chịu ảnh hưởng của Truyện Kiều… Không thể không kể đến Trương Hán Siêu. Ông đã để lại cho đời một kiệt tác văn học như bản anh hùng ca “Bạch Đằng giang phú”.
Trương Hán Siêu quê ở làng Phúc Am, huyện Yên Ninh, nay thuộc tỉnh Ninh Bình. Theo sử sách, xuất thân của Trương Hán Siêu là môn khách của Trần Hưng Đạo. Ông có học thức uyên thâm và tính tình ngay thẳng, thẳng thắn. Bản thân ông là người văn võ song toàn, có nhiều công lao trong các cuộc kháng chiến chống quân Nguyên Mông xâm lược. Trong sự nghiệp chính trị của mình, ông được vua Trần Dụ Tông giao cho nhiều chức vụ quan trọng và được phong học sĩ. Ông mất năm 1353, để lại bao nỗi tiếc thương trong lòng dân chúng. Khi ông mất, họ Vua truy tặng ông là Thái phó và được thờ ở Văn Miếu ngang hàng với các bậc tiên hiền. Ông từng là người chống đạo Phật, nhưng hiểu được nhân cách và tài năng của ông, nhà vua không trách ông mà còn giao cho ông làm cai quản một ngôi chùa lớn. Vào những ngày cuối đời, ông là một Phật tử thuần thành và đã cho ra đời những tác phẩm chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của tôn giáo này. Về sự nghiệp văn học, ông đã để lại nhiều tác phẩm hay như thơ: Cúc hoa, Thực thảo cúc, Quách quản lý, Dục Thúy Sơn, Hóa Châu… và tác phẩm văn xuôi Dục Thúy Sơn Lĩnh Tháp, Khai Nghiêm tự truyện đều viết bằng chữ Hán.
Tác phẩm “Bạch Đằng giang phú” là một trong những tác phẩm chữ Hán đặc sắc nhất của ông còn được lưu giữ đến ngày nay. Xuyên suốt bài viết, tác giả sử dụng giọng điệu và ngôn ngữ căm thù giặc, tự hào về ý chí kiên cường của dân tộc. Đây không chỉ là tác phẩm xuất sắc nhất trong sự nghiệp văn học của ông mà còn trở thành tác phẩm tiêu biểu của thời Lý Trần. Bài phú được coi là áng thiên cổ hùng văn có nội dung sâu sắc, ý nghĩa và nghệ thuật văn học đỉnh cao.
Đọc bài phú, chúng ta dễ dàng cảm nhận được tình yêu đất nước sâu nặng của tác giả cũng như niềm tự hào về truyền thống đấu tranh anh dũng, bất khuất của dân tộc cũng như lòng nhân nghĩa, nhân nghĩa trong cuộc sống. Giá trị nhân văn cao cả trong bài thể hiện ở sự đề cao vị trí, vai trò của con người đã làm nên lịch sử.
Niềm tự hào chứa đựng trong bài thơ được thể hiện đậm nét qua những câu thơ tổng kết về chiến thắng Bạch Đằng vang dội năm xưa:
“Giặc tan muôn thủa thăng bình,
Bởi đâu đất hiểm, bởi mình đức cao”
Bài chia làm 4 phần với kết cấu mạch lạc, liên kết chặt chẽ. Phần mở đầu là đoạn cảm xúc của nhân vật khách khi nhìn thấy cảnh vật trên sông Bạch Đằng. Miêu tả trận Bạch Đằng hào hùng qua lời kể của các bô lão cũng như những nhận xét, suy ngẫm của các bô lão trước nguyên nhân làm nên chiến thắng oanh liệt của quân ta trên dòng sông Bạch Đằng. Các bô lão cũng kết thúc bằng một bài ca khẳng định vai trò đạo đức, nhân nghĩa của người làm con người.
Tác phẩm có hình thức phong phú, kết cấu đặc sắc dưới hình thức đối thoại giữa khách và chủ. Những vị khách có tâm hồn yêu thiên nhiên, yêu cảnh quan vô cùng khoáng đạt, thích đi du lịch khắp nơi và thích tìm hiểu lịch sử dân tộc. Du khách du ngoạn trên sông Bạch Đằng không chỉ để thưởng ngoạn cảnh sắc thiên nhiên mà còn để hồi tưởng, sống lại nơi đã từng ghi dấu chiến công oanh liệt của dân tộc ta.
Mang trong mình khát vọng tìm hiểu về lịch sử dân tộc. Trong chuyến tham quan, du khách có thể gặp gỡ những chủ quán là những cụ già sống ven sông là người dân địa phương – họ là nhân chứng sống khi trực tiếp tham gia kháng chiến năm xưa. Nhân vật ông lão cũng chỉ là một nhân vật hư cấu qua trí tưởng tượng, giúp tác giả dễ dàng bộc lộ và bộc lộ tình cảm, suy nghĩ của mình hơn bao giờ hết.
Về nghệ thuật, tác phẩm tiêu biểu cho giá trị văn học bằng nghệ thuật đỉnh cao của nó. Trương Hán Siêu đã rất khéo léo khi sử dụng thể tự do, không hạn chế về mặt hình thức nhưng toàn bài thơ vô cùng gắn kết, xuyên suốt giữa yếu tố tự sự và trữ tình. Kết cấu bài chặt chẽ, lối hành văn hùng hồn, thể hiện tài năng văn chương cũng như tư duy nhạy bén của tác giả để nâng tầm giá trị văn học. Hình tượng nghệ thuật trong bài cũng được tác giả xây dựng vô cùng sinh động với giọng điệu trang trọng, hào hùng nhưng không kém phần lắng đọng cảm xúc, đôi khi là triết lý sâu xa khiến người đọc bị cuốn đi và sống trong cảm xúc. chạm. Cảm xúc, suy nghĩ của tác giả về lòng tự hào dân tộc, lòng tự hào về dân tộc mình và niềm tin mãnh liệt vào tương lai, vận mệnh của dân tộc.
Không chỉ giàu lòng yêu nước, học rộng, Trương Hán Siêu còn có tài văn chương bậc thầy được thể hiện qua bài “Bạch Đằng giang phú”, ông xứng đáng là một tác gia lớn trong nền văn học nước nhà.