Tính chất của phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp?

Phong trào Cần Vương là gì? Mục tiêu và tính chất của phong trào Cần Vương? Tìm hiểu cơ bản về chiếu Cần Vương? Diễn biến của phong trào Cần Vương? Ý nghĩa của phong trào Cần Vương?

Cần Vương là tên gọi của phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược nước ta vào cuối thế kỷ 19 do các sĩ phu và văn thân lãnh đạo. Vậy tính chất của phong trào Cần Vương chống thực dân Pháp là gì, hãy cùng tìm hiểu trong bài viết dưới đây.

1. Phong trào Cần Vương là gì?

Cần Vương có thể được hiểu là giúp vua tức là ủng hộ vua, giúp nước. Hay nói cách khác, Phong trào Cần Vương là tập hợp các cuộc khởi nghĩa vũ trang diễn ra trên cả nước từ năm 1885 đến 1896 hưởng ứng Chiếu Cần Vương của vua Hàm Nghi.

Phong trào đã thu hút nhiều quan lại tham gia trong triều đình và văn thân, ngoài ra phong trào còn thu hút nhiều thành phần của tầng lớp sĩ phu yêu nước đương thời. Tuy nhiên, hạn chế là mặc dù phong trào diễn ra sôi nổi khắp cả nước nhưng lại mang tính chất cục bộ hóa cá nhân, không có mối liên hệ với nhau.

Nguyên nhân bùng nổ Phong trào Cần Vương: vào năm 1884, thực dân Pháp đánh chiếm và xâm lược Việt Nam . Với sự ủng hộ của nhân dân mà phe chủ chiến của bên ta đã trong tư thế sẵn sàng chiến đấu.

Thế là sáng ngày 5-7-1885, cuộc khởi nghĩa của ta diễn ra dưới sự lãnh đạo của Tôn Thất Thuyết. Tuy nhiên, cuộc phản công thất bại, vua Hàm Nghi phải tản cư vào Quảng Trị, và tại đây ông ra chiếu Cần Vương lần thứ nhất. Ngày 20-9-1885, một văn bản Cần Vương khác được công bố đã làm bùng nổ mạnh mẽ phong trào kháng chiến.

2. Mục tiêu và tính chất của phong trào Cần Vương:

Theo chữ Hán, “Cần Vương” có nghĩa là giúp vua dựng nước, phò vua vượt qua khó khăn. Chiếu Cần Vương ra đời trong khoảng thời gian thực dân Pháp đàn áp nhân dân ta. Phong trào Cần Vương do vua Hàm Nghi khởi nghĩa chống thực dân theo Chiếu Cần Vương được phát động rộng rãi trong cả nước và diễn ra trong khoảng thời gian từ năm 1885 đến năm 1896 với quy mô nhỏ và tính chất địa phương rõ rệt. Phương thức đấu tranh của phong trào Cần Vương chủ yếu là vũ trang khởi nghĩa, ít chú ý đến tuyên truyền, đấu tranh trên lĩnh vực tư tưởng, chính trị,…

Vua Hàm Nghi viết nên Chiếu Cần Vương Biên với những nội dung chính như sau:

‐ Lên án tội ác xâm lược của thực dân Pháp thực dân.

‐ Kết án một số quan chức về tội gian lận, tham nhũng.

‐ Lên án sự bất hợp pháp của tòa án do người Pháp thành lập.

‐ Củng cố sự kháng chiến của triều đình do vua Hàm Nghi đứng đầu.

‐ Kêu gọi, mời và động viên các nho sĩ, văn thân và toàn dân trong nước tham gia đấu tranh giúp vua khôi phục lại nhà nước phong kiến ​​độc lập.

Phong trào lan rộng ở Bắc Kỳ và Trung Kỳ. Cũng nhờ có Chiếu Cần Vương mà lòng nhân dân được vực dậy lên một cách mạnh mẽ. Trong đó có thể kể đến một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa) do Phạm Bành, Đinh Công Tráng lãnh đạo; khởi nghĩa Thiện Thuật lãnh đạo; khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh) do Phan Đình Phùng lãnh đạo đó có thể kể đến một số cuộc khởi nghĩa tiêu biểu như: Khởi nghĩa Ba Đình (Thanh Hóa) do Phạm Bành – Đinh Công Tráng lãnh đạo, khởi nghĩa Bãi Sậy (Hưng Yên) do Nguyễn Thiện Thuật lãnh đạo, khởi nghĩa Hương Khê (Hà Tĩnh) do Phan Đình Phùng lãnh đạo, … có tác dụng kêu gọi nhân dân khắp cả nước tham gia vào cuộc chiến chống lại thực dân Pháp lúc bây giờ.

Sở dĩ phong trào Cần Vồn cuối thế kỷ 19 thực sự được cho là một phong trào yêu nước chống Pháp giành độc lập dân tộc của quần chúng vì nó là sự tiếp nối của phong trào quần chúng kháng chiến chống thực dân Pháp. Chiếu Cần Vương (tháng 7 năm 1885) được soạn thảo ngay sau khi triều đình Huế ký Hiệp ước Quý Mùi (1883). Sau khi ký hiệp định đầu hàng, các phong trào kháng chiến của quần chúng nổ ra khắp nơi. Sự chia rẽ của các quan trong triều đã dẫn đến cuộc tấn công quân Pháp tại Kinh thành Huế, và ngay sau đó chiếu Cần Vương được ban hành, dẫn đến một phong trào sôi nổi bắt đầu từ năm 1885, kêu gọi chính sách Cần Vương cứu nước diễn ra sôi nổi từ 1885 – 1896.

Mục đích của phong trào này là đánh đuổi giặc Pháp, khôi phục nhà nước phong kiến ​​đã suy vong (trung quân – ái quốc), nhưng mục đích lớn nhất trước hết là đánh giặc cứu nước, đó là yêu cầu chung của cả dân tộc.

Chính mục đích này chiếm ưu thế, và sau khi vua Hàm Nghi bị bắt từ 1888 đến 1896, phong trào phát triển mạnh mẽ mà không có sự chỉ đạo của triều đình, dẫn đến nhiều trung tâm lớn như khởi nghĩa bùng nổ.

Những người lãnh đạo khởi nghĩa không phải là các quan lại triều đình như thời kỳ đầu chống Pháp mà chủ yếu là các văn thân, sĩ phu yêu nước, cùng chung nỗi đau mất nước với quần chúng lao động và chống thực dân Pháp xâm lược. Các lực lượng tham gia kháng chiến chủ yếu là các văn thân, sĩ phu, nông dân yêu nước.

3. Tìm hiểu cơ bản về chiếu Cần Vương:

Về cơ bản, nội dung Chiếu Cần Vương lên án tội ác của bọn thực dân xâm lược, đồng thời lên án sự phi pháp của triều đình tay sai do thực dân Pháp lập ra và sự phản bội của một số quan lại trong triều đình.

Bên cạnh đó, chiếu Cần Vương còn củng cố quyết tâm kháng chiến của triều đình do vua Hàm Nghi đứng đầu, người đã động viên, mời gọi, kêu gọi các nho sĩ, văn nhân và cả nước tham gia kháng chiến cùng nhau giúp vua khôi phục nhà nước phong kiến ​​độc lập.

Qua đó có thể thấy, chiếu Cần Vương mang những ý nghĩa nhất định đối với lịch sử, đó là:

‐ Chiếu Cần Vương kêu gọi toàn  dân chống Pháp, khôi phục nền độc lập và chế độ phong kiến.

‐ Khẩu hiệu này đã nhanh chóng thổi bùng ngọn lửa yêu quê hương, căm thù giặc ngoại xâm trong toàn thể nhân dân Nam Bộ, phong trào vũ trang chống thực dân Pháp  diễn ra ác liệt, kéo dài trong thời gian hơn 12 năm.

4. Diễn biến của phong trào Cần Vương:

Giai đoạn 1 (1885-1988): Phong trào diễn ra mang tên Cần Vương.

Phong trào Cần Vương diễn ra lẻ tẻ, quy mô nhỏ, chưa tạo được tiếng vang cùng sự liên kết giữa các phong trào khởi nghĩa ở địa phương.

‐ Ban đầu, triều đình Hàm Nghi với sự giúp đỡ của hai con trai Tôn Thất Thuyết là Tôn Thất Đàm và Tôn Thất Nghiệp, Đề đốc Lê Trực, tri Phủ Nguyễn Phạm Tuân di chuyển và chiến đấu ở vùng núi Thái Bình, sau vượt Trường Sơn, qua đất Hạ Lào về vùng sơn phòng Ấu Sơn. Chống chọi lâu dài, Tôn Thất Thuyết và Trần Xuân Soạn đã phá vòng vây, lãnh đạo lực lượng kháng chiến ở Thanh Hóa và quyết định sang Trung Quốc.

‐ Tháng 12 năm 1886, theo lệnh của Toàn quyền Polve (P. Bart), Đồng Khánh dụ đầu hàng, nhưng không ai trong “Triều đình Hàm Nghi” buông súng.

Trong giai đoạn đầu này, phong trào Cần Vương từ trung tâm lan rộng ra Bắc chí Nam. Ở Trung Kỳ có Quảng Bình với Lê Trực, Nguyễn Phạm Tuân, Quảng Nam là Trần Quang Dự với Nguyễn Hoàng và Trần Duy Hiệu, Quảng Ngãi là Lê Trung Đình, Bình Định là Mai Xuân Thưởng.

Bắc Kỳ cũng dấy lên nhiều cuộc khởi nghĩa quan trọng, trong đó có Đốc Tít ở ​​Đông Triều, Cai Kinh ở Bắc Giang, Nguyễn Quang Bích ở Tây Bắc.

Giai đoạn 2 (1888-1996): Vua Hàm Giơ bị bắt, nhưng khởi nghĩa vẫn tiếp tục thậm chí diễn ra sôi nổi.

Nhưng giống như giai đoạn 1, giai đoạn 2 các cuộc khởi nghĩa vũ trang vẫn diễn ra lẻ tẻ, chưa có sự liên kết.

‐ Đêm 1-11-1888, vua Hàm Nghi bị giặc bắt  tại  núi Tuyên Hóa (Quảng Bình) do Trương Quang Ngọc làm phản. Ông bị đày sang Algérie.

Trong điều kiện ngày càng khó khăn, số lượng các cuộc khởi nghĩa giảm đi nhưng tập trung ở các trung tâm kháng chiến lớn.

 – Sau một cuộc tấn công kéo dài vào đầu tháng 1 năm 1887, đồn Ba Đình ở Thanh Hóa bị 3.000 quân Pháp tiêu diệt. Phạm Bành, Đinh Công Tráng mở đường máu vào căn cứ Mã Cao (Yên Định) theo kế hoạch đã định. Họ giao chiến hàng tháng trời, thắng nhiều trận quan trọng, và chỉ rút lui khi Mã Cao tan vỡ vào mùa thu năm 1887.

‐ Dưới sự lãnh đạo của Tân thủ lĩnh người Thái là Kam Ba Tuok, người Mường là Hà Văn Mao, ngọn lửa Ba Đình đã tắt một lần nữa lại được thổi lên, kéo dài tới năm 1892.

‐ Cuộc khởi nghĩa Bãi Sậy của Thiện Thuật nổ ra vào năm 1885, với phong cách chiến đấu của quân du kích, mặc dù họ không có những trận đánh lớn như của Ba Đình, nhưng cũng gây thương vong nặng nề cho quân Pháp.

‐ Cuộc nổi dậy lớn nhất, độc đáo nhất sau thời Cần Vương là cuộc khởi nghĩa Hương Khê.

‐ Phan Đình Hùng chia địa bàn thành 4 tỉnh Thanh, Niên, Tĩnh, Bình với 15 đạo quân để xây dựng tiền tuyến vững chắc. Là một cuộc chiến tranh du kích với sự giao tranh toàn diện trên một mặt trận kiên cố, cuộc nổi dậy Hương Khê đã gây thương vong nặng nề cho quân đội Pháp.

 – Khi thực dân Pháp tấn công thành Ba Đình, chúng phải huy động một đạo quân đông hơn hẳn đội ngụy quân 3.000 tên của Nguyễn Thành, đông hơn về quân số và vũ khí.

‐ Ngày 28-12-1895, Phan Đình Hưng qua đời tại núi Phan (Hà Tĩnh), để lại bài thơ Tuyết Mạn là một tác phẩm xuất sắc của văn học hiện đại. 23 tướng lĩnh của ông cũng bị Pháp bắt và xử tử tại Huế. Đầu năm 1896, những tiếng súng cuối cùng của phong trào Cần Vương kết thúc.

5. Ý nghĩa của phong trào Cần Vương:

Phong trào này thể hiện tinh thần yêu nước bất khuất của nhân dân ta, thực hiện mục tiêu cao cả là đánh thực dân Pháp cứu nước.

Phong trào thất bại do hệ tư tưởng phong kiến ​​thống trị. Điều này chứng tỏ hệ tư tưởng phong kiến ​​không thể giải quyết được những thách thức do lịch sử đặt ra. Sự thất bại của phong trào này như vậy là đã chấm dứt thời kỳ đấu tranh tư tưởng phong kiến ​​và sứ mệnh lịch sử của giai cấp phong kiến ​​là lãnh đạo phong trào cách mạng. Từ đây, phong trào cách mạng Việt Nam đòi hỏi phải tìm ra những phương pháp đấu tranh mới để giành độc lập dân tộc, giúp  những người yêu nước Việt Nam tìm đến một ánh sáng tư tưởng mới để tiếp tục đấu tranh,

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com