Quân đội nhân dân giữ vai trò nòng cốt trong chiến đấu bảo vệ, bảo đảm an ninh quốc gia, bảo vệ chủ quyền quốc gia, toàn vẹn lãnh thổ.
1. Quân đội nhân dân Việt Nam:
Quân đội nhân dân Việt Nam là cơ quan chủ lực của lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam. Theo Chính phủ Việt Nam, sứ mệnh của quân đội là “vì độc lập tự do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội, vì hạnh phúc của nhân dân”
Quân kỳ của Quân đội nhân dân Việt Nam là Quốc kỳ của Việt Nam, ở góc trên bên trái có dòng chữ màu vàng ” quyết thắng”. Mười lời thề danh dự của chiến sĩ Quân đội nhân dân Việt Nam nói lên nhiệm vụ của Quân đội nhân dân Việt Nam là không ngừng trau dồi chủ nghĩa yêu nước xã hội chủ nghĩa, tinh thần quốc tế vô sản, tích cực tham gia đấu tranh giành độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội.
Sĩ quan Quân đội nhân dân Việt Nam là sĩ quan của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam đang hoạt động trong lĩnh vực quân sự. Sĩ quan là lực lượng chủ yếu xây dựng Quân đội nhân dân Việt Nam
2. Tổ chức tiền thân của Quân đội Nhân dân Việt Nam:
Tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam là Đội Việt Nam tuyên truyền Giải phóng quân. Từ khi thành lập đến nay, Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân luôn lớn mạnh và trưởng thành. Ngày 22/12/1944 được lấy làm ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam, đánh dấu sự ra đời của tổ chức quân sự mới của nước ta. Quân đội “của dân, do dân, vì dân”; luôn gắn bó với những con người bằng xương bằng thịt, luôn được mọi người yêu thương, quý trọng. Năm 1989, theo chỉ thị của Ban Bí thư Trung ương Đảng và quyết định của chính phủ, ngày 22 tháng 12 hàng năm không chỉ là ngày kỷ niệm Ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam mà còn là ngày ngày Hội quốc phòng toàn dân.
Từ đó, hàng năm toàn dân tộc Việt Nam đều tổ chức các hoạt động quốc phòng, quân sự vào ngày này để truyền bá truyền thống đánh giặc giữ nước và phẩm chất nghĩa hiệp của dân tộc. Bộ đội Cụ Hồ, vun đắp lòng yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội, động viên mọi công dân chăm lo bảo vệ Tổ quốc, xây dựng quân đội, bảo vệ Tổ quốc.
3. Quá trình thành lập:
Giữa năm 1944, chính quyền mặt trận Việt Minh phát triển mạnh ở vùng Cao Bắc Lạng, lợi dụng sự chú ý của Pháp và Nhật ở Đông Dương, chủ yếu ở các khu vực đô thị quan trọng, nên không thể áp lực thành phố lên vùng núi biên giới. Tuy đã có các đội du kích vũ trang những hoạt động tuyên truyền chính trị của cán bộ Việt Minh vẫn chưa hoàn toàn gắn liền với hoạt động vũ trang vì lúc đó còn mang tính cục bộ, thiếu thống nhất. Nên không đạt được hiệu quả xây dựng căn cứ lớn đặc biệt là ở các khu vực vẫn nằm dưới sự kiểm soát của Pháp, mặc dù một cách lỏng lẻo.
Trong bối cảnh đó, lãnh tụ Việt Minh Hồ Chí Minh cho rằng chỉ tuyên truyền chính trị thì khó thành công, nên Người ra chỉ thị phải thành lập một lực lượng vũ trang nòng cốt gồm cán bộ chính trị, du kích. Ông chỉ định Võ Nguyên Giáp thực hiện việc thành lập một lực lượng quân sự tập trung. Khi Võ Nguyên Giáp và Lê Quảng Ba báo cho ông biết kế hoạch thành lập một tổ chức vũ trang lấy tên là “Đội Việt Nam Giải phóng quân” ông đã thêm hai từ “Tuyên truyền” để thành tên gọi hoàn chỉnh “Đội Việt Nam tuyên truyền giải phóng quân”.
Trên cơ sở đó, tháng 9 năm 1944, một số cán bộ chính trị cùng với đội viên du kích của Việt Minh, tập hợp lại thành 3 đội vũ trang tập trung gồm Tam Kim, Hoa Thám, Chí Kiên, đã được triệu tập tham gia lớp huấn luyện 20 ngày ở rừng Khuổi Cọ (cách đèo Cao Bắc tầm khoảng 6 km) do ông Võ Nguyên Giáp và Hoàng Sâm làm giảng viên. Giữa tháng 12 năm 1944, một chỉ thị viết tay của lãnh tụ Hồ Chí Minh để trong vỏ bao thuốc lá, gửi cho ông Võ Nguyên Giáp.
3.1. Chỉ thị thành lập Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân
1. Tên gọi: Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân nghĩa là chính trị trọng hơn quân đội. Đây là một nhóm tuyên truyền. Vì nguyên tắc chính để đạt được kết quả quân sự là củng cố lực lượng, nên theo chỉ thị mới của tổ chức, số cán bộ và đội viên được chọn từ hàng ngũ Cao – Bắc – Lạng. quân du kích những người quyết tâm nhất, nhiệt tình nhất và tập hợp một số lượng lớn vũ khí để thành lập đội nòng cốt.
Vì cuộc kháng chiến của chúng ta là cuộc kháng chiến của toàn dân tộc, phải động viên toàn dân tộc, vũ trang toàn dân tộc, do đó, tập hợp lực lượng để thành lập đội quân thứ nhất, cần phải bảo toàn lực lượng vũ trang, hợp tác trong các hoạt động và giúp đỡ trong mọi việc. Tuy nhiên, bộ đội chủ lực có trách nhiệm chỉ đạo các nhóm vũ trang địa phương, giúp huấn luyện, giúp vũ khí nếu có thể để các nhóm này trưởng thành.
2. Đối với các đội vũ trang địa phương: Đưa cán bộ địa phương đi huấn luyện, cử các bộ đã được huấn luyện đi các nơi, trao đổi kinh nghiệm, liên lạc thông suốt và hiệp đồng tác chiến.
3. Về chiến thuật: Vận dụng lối đánh du kích, bí mật, nhanh chóng, tích cực, nay hướng Đông, mai hướng Tây, vô hình,… Đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân là đội cấp trên, hy vọng sắp tới sẽ có các đội cấp dưới khác. Mặc dù ban đầu quy mô của nó còn nhỏ nhưng tương lai của nó rất tươi sáng. Đây là nơi xuất phát của quân giải phóng, nó có thể trải dài từ Bắc chí Nam, xuyên suốt lãnh thổ Việt Nam.
Nhóm được thành lập ngày 22-12-19 tại khu rừng giữa Trần Hưng Đạo và Hoàng Hoa Thám (nay thuộc tỉnh Cao Bằng). Ban đầu quân đội được chia thành 3 phân đội do Đại tướng Võ Nguyên Giáp chỉ huy; Hoàng Sâm được bầu làm đội trưởng; Xích Thắng hay Dương Mạc Thạch làm chính trị viên, Hoàng Văn Thái chịu trách nhiệm tình báo, bày mưu tác chiến; Lâm Cẩm Như hay Lâm Kính đảm trách công tác chính trị; Lộc Văn Lũng, tức quản lý Văn Tiếp. Vũ khí ban đầu bao gồm 2 súng thập (súng ngắn 10 viên), 17 súng trường, 14 mã tấu.
3.2. Quá trình hoạt động:
Sau khi lập đội hình, Trang đã thắng trong 2 trận đầu ở Phai Khắt và Nà Ngần (Cao Bằng). Sau hai trận đánh này, bộ đội phát triển thành đại đội do Hoàng Sâm làm đại đội trưởng, Xích Thắng làm chính trị viên.
Nhóm lập cơ sở cách mạng rộng lớn ở Hòa An, Nguyên Bình (Cao Bằng), Ngân Sơn, Chợ Rã (Bắc Kạn)…
Sau khi Nhật đảo chính quân Pháp ngày 9 tháng 3 năm 1945, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân đã chia thành nhiều mũi, một mũi đánh xuống phía nam đánh chiếm Ngân Sơn, Chợ Rã, Phủ Thông, Chợ Đồn, Na Rì (Bắc Kạn), Chiêm Hóa (Tuyên Quang) làm trọng điểm tiến công. Thất Khê, Bình Gia (Lạng Sơn), kéo dài đến tận biên giới Việt Trung, hạ hàng loạt doanh trại từ Trùng Khánh đến Bảo Lạc, rồi phát triển ra Hà Giang. Cuối tháng 3, một đội Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân hội quân với Cứu quốc quân ở Chợ Chu (Thái Nguyên).
Ngày 15 tháng 5 năm 1945, tại Chợ Chu, Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân kết hợp với Cứu quốc quân và một số đội du kích thành một lực lượng duy nhất gọi là Việt Nam Giải phóng quân. Đó là tiền thân của Quân đội nhân dân Việt Nam.
5. Nhiệm vụ cơ bản của Quân đội nhân dân Việt Nam:
– Toàn quân phải tiếp tục quán triệt sâu sắc quan điểm, chủ trương, chính sách của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Hiểu và vận dụng đầy đủ nội dung, nguyên tắc, giải pháp của chiến lược, bám sát tình hình thực tế, tham mưu về đường lối, sách lược của Đảng và Nhà nước, bảo đảm xử lý kịp thời, thắng lợi trong mọi tình huống quân sự, quốc phòng.
Các cơ quan cấp chiến lược của Bộ Quốc phòng luôn có cơ cấu, tổ chức hợp lý; xây dựng và đào tạo đội ngũ tham mưu chiến lược có kiến thức lý luận và thực tiễn sâu rộng.
– Tiếp tục nâng cao chất lượng huấn luyện, khả năng chiến đấu trong toàn quân. Tăng cường xây dựng khu vực phòng thủ, bảo đảm đánh thắng ngày đầu, trận đầu.
– Tiếp tục xây dựng đảng bộ, tổ chức đảng trong quân đội trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, đạo đức và tổ chức. Không ngừng phát triển và nâng cao năng lực lãnh đạo toàn diện, sức chiến đấu của tổ chức đảng và đảng viên.
– Làm tốt công tác vận động quần chúng trong toàn quân thì huy động được quần chúng, tạo được thế đứng vững chắc trong lòng dân, giữ được mối quan hệ máu thịt với nhân dân.
– Đẩy mạnh hội nhập quốc tế, nâng cao hiệu quả đối ngoại quốc phòng ở cả cấp độ đa phương và song phương.