Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên Module GVPT 11 theo quy định Thông tư 17/2019/TT-BGDĐT để thầy cô cùng tham khảo. Bài thu hoạch bồi dưỡng thường xuyên module GVPT 11 là bài thu hoạch về tạo dựng mối quan hệ hợp tác với cha mẹ học sinh và các bên liên quan trong hoạt động dạy học và giáo dục học sinh trong các cơ sở giáo dục phổ thông.
1. Lợi ích của việc xây dựng mối liên hệ giữa Phụ huynh, Nhà trường và Cộng đồng:
Phụ huynh thường xuyên tìm hiểu tình hình học tập, thực tế của con em ở trường, lớp; trên cơ sở đó hỗ trợ các em phát huy những mặt tốt hoặc ngăn ngừa, uốn nắn, sửa chữa ngay những hạn chế của các em trong học tập, rèn luyện.
Thầy cô thấu hiểu học sinh hơn, nhất là các em có hoàn cảnh khó khăn để từ đó có phương pháp dạy phù hợp, toàn diện và có định hướng quan tâm đến từng người nhiều hơn.
Cộng đồng hiểu rõ vai trò, trách nhiệm của mình, tích cực hỗ trợ nhà trường và gia đình tạo môi trường thuận lợi cho trẻ em học tập và rèn luyện.
2. Sự phối hợp giữa gia đình – nhà trường – xã hội trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh:
Có 3 yếu tố chính trong việc giáo dục đạo đức học sinh đó là gia đình, nhà trường và xã hội. Mỗi yếu tố có một vai trò cụ thể:
Gia đình: là tế bào của xã hội, là nền tảng của mọi quốc gia, là chỗ dựa tinh thần vững chắc, đồng thời là kim chỉ nam tránh những hiểu lầm giữa các học sinh với nhau.
Trường học: là môi trường giáo dục chuyên nghiệp, không chỉ phát triển kiến thức mà còn trao cho học sinh những giá trị sống cơ bản của xã hội, để các em trở thành những trí thức thực sự trong cuộc sống, sự phong phú về tinh thần với cuộc sống gia đình.
Xã hội: Là môi trường thực hành giúp học sinh phát triển các kỹ năng sống định hướng nhiều suy nghĩ và hành động của học sinh.
Vì vậy, việc kết hợp ba yếu tố trên là hết sức cần thiết để nâng cao chất lượng giáo dục nhân cách cho học sinh. Là phần đế, đơn giản, vững chắc và cần thiết cho mọi bàn chân.
Ví dụ 1: (không có yếu tố gia đình) Tôn trọng luật lệ và an toàn giao thông của trường.
Nhà trường và xã hội có sự phối hợp tốt trong việc thực hiện an toàn giao thông học đường. Học sinh lớp 1 học luật giao thông được cập nhật, bổ sung thông tin liên tục. Học sinh được xã hội bảo vệ bằng các luật như đội mũ bảo hiểm và không đi xe phân khối lớn. Cảnh sát cũng đã phối hợp chặt chẽ với nhà trường và xã hội. Tuy nhiên, nhiều phụ huynh vẫn tiếp tục cho con đến trường trên những chiếc xe phân khối lớn, bất chấp và lách luật bằng cách gửi xe ở các bãi xe xung quanh trường. Đây là một ví điển hình về việc gia đình trong việc hợp tác với nhà trường và xã hội.
Ví dụ 2: (trường học) Rèn luyện kĩ năng sống cho học sinh.
Đôi khi cha mẹ rất muốn con mình được dạy kỹ năng giao tiếp và bồi dưỡng để khi ra cuộc sống không bỡ ngỡ và thiệt thòi hơn. Xã hội cũng tạo nhiều điều kiện tham gia cho học sinh như thành lập các nhà văn hóa, hội đoàn giáo xứ. Tuy nhiên, do lịch học dày đặc hiện nay, học ngày học đêm và học thêm ngày chủ nhật nên việc phát huy kỹ năng sống dường như là điều không thể.
Ví dụ 3: (xã hội) Nhu cầu của học sinh.
Gia đình, nhà trường cố gắng hướng học sinh đến một tâm hồn trong sáng, cao đẹp, sống trọn vẹn vì mọi người, nhưng xã hội vô hình trung lại đề cao năng lực, địa vị, quyền lực, tiện nghi, phú quý. Điều này tác động rất lớn đến nhận thức sống của học sinh mà đôi khi ngay cả gia đình và nhà trường cũng không uốn nắn được.
Nhìn chung, sự phối hợp hoặc thiếu phối hợp của ba yếu tố đều ảnh hưởng đáng kể quá trình giáo dục đạo đức học sinh.
3. Những bất cập trong việc giáo dục đạo đức cho học sinh:
3.1. Đối với gia đình:
Một số gia đình hầu như không quan tâm đến học sinh hoặc quan tâm không đúng mức. Thả lỏng hoàn toàn, hoặc cách một đứa trẻ được nuôi dạy để thành công hơn quá mức dẫn đến những kết quả tồi tệ.
Cách khắc phục: Cha mẹ nên dành nhiều thời gian hơn để dạy dỗ con cái về đạo làm người, không chỉ chạy theo những giá trị thực tế như học vấn hay tiền bạc mà còn cho con thấy những giá trị tâm hồn.
3.2. Đối với nhà trường:
Hiện nay, khi một học sinh có biểu hiện vi phạm đạo đức, xã hội chỉ trích là bộ phận GDCS chưa làm tròn trách nhiệm. Nhưng ít ai tin rằng vấn đề quan trọng nhất cần giải quyết là nội dung chương trình. Được coi là chuẩn mực hiện đại của Việt Nam, cuốn sách chứa đầy những lý thuyết sáo rỗng xa rời thực tế.
Chương trình phổ thông chỉ tập trung vào những bài học lớn về tư tưởng chính trị mà vô tình bỏ quên những điều rất đời thường, biết sống biết tôn trọng người khác, những giá trị đạo đức nhân văn. Trong trường học, môn hoặc GDCD được coi chỉ là thứ yếu.
Cách khắc phục: Không có cách nào tốt hơn là thay đổi phương pháp dạy học môn GDCD. Chương trình phải thực sự bổ ích cho các em, là hành trang lý tưởng để các em tự tin bước vào đời. Đừng để tình trạng phát triển theo hướng 100% học sinh trả lời bài kiểm tra.
3.3. Đối với xã hội:
Thế hệ sau không có tấm gương đạo đức để noi theo. Một bài học về an toàn giao thông làm sao có thể thực hành nếu một đứa trẻ thường xuyên nhìn thấy bố mẹ vượt đèn đỏ? Và làm thế nào để dạy đạo đức cho học sinh khi có tội phạm rõ ràng, nhưng tội phạm vẫn tránh được? Do tiếp xúc với quá nhiều thông tin tiêu cực, học sinh trở nên lúng túng trong quá trình phát triển nhân cách, thậm chí tệ hơn là định hướng sai.
Khắc phục: Muốn rèn luyện ai thì phải rèn luyện bản thân trước đã. Thế hệ đi trước phải luôn ý thức mình là tấm gương cho thế hệ trẻ. Nó được coi là phần lớn thành công trong việc xây dựng nhân cách giữa các học sinh.
4. Giải Pháp, kiến nghị:
Một là, làm cho cán bộ công chức, giáo viên, cha mẹ học sinh, lãnh đạo cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính trị – xã hội nhận thức rõ tầm quan trọng, vai trò phối hợp của ba môi trường nhà trường, gia đình và xã hội trong công tác quản lý, giáo dục học sinh; phân định rõ trách nhiệm, quyền hạn của các bên tham gia trong từng môi trường giáo dục; mỗi người phải nhận thấy mình luôn sẵn sàng cộng tác và cộng tác tích cực, không chờ đợi hay ỷ lại vào các môi trường giáo dục khác; Có như vậy mới tạo được sự đồng thuận cao và thực hiện được sự tham gia chủ động, tích cực của toàn xã hội vào giáo dục.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện; chú trọng hướng dẫn, bồi dưỡng cho học sinh đạo đức, nhân cách, lối sống, kỹ năng sống, văn hóa ứng xử cùng truyền thống lịch sử, văn hóa, cách mạng, giáo dục pháp luật và trách nhiệm; kết hợp hài hòa việc “dạy chữ”, “dạy người” và “dạy nghề”, tạo môi trường giáo dục an toàn, lành mạnh, thân thiện để phòng, chống bạo lực học đường; hình thành và thực hiện văn hóa ứng xử trong nhà trường. Tổ chức các hoạt động phong phú, sáng tạo, thiết thực, hiệu quả nhằm trải nghiệm sáng tạo, rèn luyện kỹ năng sống, văn hóa, văn nghệ, thể thao, giáo dục ngoài giờ lên lớp nhằm tạo sân chơi bổ ích, giáo dục toàn diện cho học sinh. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý giáo dục; tăng cường kỷ cương, trật tự trường, lớp; tiếp tục đổi mới, sáng tạo, nâng cao chất lượng, hiệu quả các hoạt động giáo dục một cách thực chất và bền vững. Xây dựng bộ quy tắc ứng xử trong trường học và thực hiện nghiêm túc.
Thứ ba, phối hợp hiệu quả với các ban, ngành, đoàn thể, tổ chức xã hội và các địa phương trong công tác quản lý, rèn luyện học sinh, tạo môi trường giáo dục an toàn, thân thiện. Ngoài học tập phổ thông, còn thu hút học sinh bằng việc tăng cường phối hợp tổ chức các hoạt động học tập ngoại khóa, trải nghiệm sáng tạo đa dạng, phong phú, sáng tạo, tạo sân chơi học tập lành mạnh, trí tuệ, học sinh có cơ hội và môi trường phát triển phẩm chất, năng khiếu. Đánh giá, hướng dẫn các cơ sở giáo dục tổ chức các hoạt động trải nghiệm, học tập, ngoại khóa đúng quy định, tuyệt đối an toàn, đảm bảo mục tiêu giáo dục chung và phát triển năng lực học sinh. Mặt khác, các cấp chính quyền, các ban, ngành, đoàn thể địa phương theo nhiệm vụ, nhiệm vụ của mình tiếp tục quan tâm, phối hợp giúp đỡ nhà trường đầu tư xây dựng cơ sở vật chất, cảnh quan sư phạm; tăng cường quản lý các dịch vụ xung quanh trường học (cửa hàng đồ chơi, trò chơi điện tử, cửa hàng…), tuyên truyền giáo dục pháp luật về an toàn giao thông, phòng chống ma túy, giáo dục phòng chống các tệ nạn xã hội, ngăn chặn, hạn chế việc đưa văn hóa phẩm độc hại vào trường học.