Bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo và hồn Trương Ba

Bi kịch tha hóa của nhân vật Chí Phèo và hồn Trương Ba là minh chứng rõ nhất cho giá trị hiện thực của tác phẩm. Dù ở hai thời đại khác nhau, nhưng Nam Cao và Lưu Quang Vũ đã cùng đồng điệu với nhau.

1. Dàn ý phân tích Bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo và hồn Trương Ba:

1.1. Mở bài:

– Giới thiệu đôi nét về nhà viết kịch Lưu Quang Vũ và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”. Giới thiệu ngắn gọn tấn bi kịch của nhân vật Trương Ba. Vấn đề là cách giải quyết bi kịch của nhân vật Trương Ba: kiên quyết từ chối nhập xác Tí và chọn cái chết để trả xác cho anh hàng thịt.

– Từ vấn đề trên: gợi ý cho em cách giải quyết bi kịch nhân vật Chí Phèo đâm chết Bá Kiến rồi tự kết liễu đời mình trong truyện ngắn Chí Phèo của Nam Cao để thấy được quan niệm giá trị của hai tác giả về cuộc sống thực của con người.

1.2. Thân bài:

a. HS tóm tắt hoàn cảnh éo le của Trương Ba ngay từ đầu dẫn đến sự lựa chọn cuối cùng: kiên quyết không nhập xác Tí và chọn cái chết trả xác cho anh hàng thịt.

Đoạn văn có thể được gọi là “Thoát ra nghịch cảnh” là cảnh cuối cùng, ngay khi xung đột trung tâm của vở kịch lên đến đỉnh điểm. Sau vài tháng sống trong tình trạng “thế này, thế nọ”, nhân vật Hồn Trương Ba ngày càng xa lánh bạn bè, người thân trong gia đình và chán ghét chính bản thân mình.

Hồn Trương Ba cảm thấy mình không thể sống trong “bộ da” anh hàng thịt, không thể kéo dài mãi “nghịch cảnh”. Linh hồn muốn tách khỏi thể xác cồng kềnh, thô lỗ. Ở trạng thái đó; nhà văn đã sáng tạo khi tạo ra cuộc đối thoại giữa hồn và xác để rồi trước sự chế giễu, trớ trêu của xác anh hàng thịt, hồn Trương Ba càng thêm đau khổ, bế tắc.

Cách hành xử của những người trong gia đình (với vợ, với bạn gái, với con dâu) càng khiến anh tuyệt vọng hơn. Hồn Trương Ba thắp hương gọi Đế Thích, hai bên đang nói chuyện thì người chú hàng xóm qua đời.

Đế Thích đề nghị hồn lìa khỏi xác anh hàng thịt trở về với xác Tí. Còn hồn Trương Ba sau khi trải qua một “kiếp” vô cùng cay đắng, mường tượng ra những “nghịch cảnh” khác khi sống trong thân xác một đứa trẻ, đã quyết đòi Tí được sống và được chết một cách trọn vẹn.

b. HS phát biểu cảm nghĩ về hành động này của Trương Ba:

– Đây là hành động tất yếu khi Trương Ba đang chìm sâu vào kiếp sống “phức tạp” khi nhập vào thân xác một người khác (anh hàng thịt); và bây giờ nó lại nhập vào cơ thể của một đứa trẻ.

Theo Đế Thích, ông và anh hàng thịt là hai người xa lạ, ông và Tí từng “quen nhau”, “ai ở trong thân xác thằng bé cũng được…”. Suy nghĩ một hồi, Trương Ba nhận ra: ông lão đã gần 60, Cu Tí chưa ra đời, còn khoẻ mạnh; rồi anh sẽ giải thích rằng anh không phải con của chị; rồi vợ con sẽ nghĩ sao khi bố vợ trong xác cậu bé lên 10; rồi cháu gái của bạn sẽ nghĩ gì; và sau đó là hàng xóm,…

Cái chết của Cu Tí khiến những day dứt, dằn vặt trong anh dồn nén trong tư thế phải quyết định càng nhanh càng tốt trong một tình huống khó xử. Cái chết của Cu Tí đẩy nhanh tình tiết gay cấn, buộc Cu Tí phải lựa chọn; một là nhập vào xác Tí ngay khi chết, hai là hắn để hồn Tí có chỗ quay về với thể xác của mình.

Không thể theo đề nghị của Đế Thích vì “thấy trước nhiều điều chẳng lành”; anh không tham lam cuộc sống khi biết rằng tiếp tục vẫn là một bi kịch. Tấm lòng nhân hậu của ông đã cầu nguyện Đế Thích “Xin hãy cứu lấy nó”; Triệu hồn Tí nhập xác và Tí chọn cái chết để trả xác cho anh hàng thịt.

Anh mong muốn: “Tôi không muốn ở trong hình dạng của bất kỳ ai nữa! Tôi chết rồi, cho tôi chết đi!”, để không còn một “con ác thú” mang tên “hồn Trương Ba, da hàng thịt”, bi kịch tâm hồn anh đã được hóa giải.

– Xây dựng tình huống và giải quyết xung đột như vậy, Lưu Quang Vũ đã gửi gắm một triết lý sâu sắc về lẽ sống và lẽ làm người: cuộc đời thật đáng quý, nhưng sống mãi thôi thì chưa đủ.

– Nếu sống vay mượn, sống chắp vá, thiếu sự hài hòa giữa vẻ đẹp tâm hồn, nhân cách và nhu cầu vật chất thì con người chỉ gặp bi kịch. Cuộc đời mỗi người chỉ thực sự hạnh phúc, chỉ có giá trị khi được sống thật với chính mình, sống tự nhiên trong một thể thống nhất. Đó là chủ đề tư tưởng chính của vở kịch.

– Qua đây ta cũng thấy được phẩm chất đáng quý, nhân hậu, trung thực và nhân đạo của ông Trương Ba. Quả thật, sau khi hồn Trương Ba thoát khỏi xác anh hàng thịt, anh không hề mất đi vĩnh viễn như Đế Thích đã nói. Anh trở về còn nguyên vẹn trong tâm trí, tình yêu thương của vợ con và những người thân yêu (tập).

b. HS chỉ ra những điểm giống nhau trong cách giải quyết tấn bi kịch của hai tác giả để thấy được quan niệm của hai tác giả về giá trị đích thực của cuộc sống con người.

– Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ tuy ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử, xã hội khác nhau nhưng đều đề cập đến những bi kịch của nhân loại, trong đó có bi kịch tha hóa.

Qua hai bi kịch và cái kết của hai tác phẩm, ta thấy giá trị phê phán xã hội sâu sắc. Nỗi đau khổ của Trương Ba và Chí Phèo là do bọn thống lí gây ra. Bá Kiến nhẫn tâm đẩy Chí Phèo vào tù 7,8 năm.

Được sự giáo dục của nhà tù thực dân Chí Phèo trở thành một tên côn đồ hung hãn, hắn đã vùng lên liều mạng trả thù. Nhưng anh đã gặp một kẻ thống trị nham hiểm, xảo quyệt và biến thành công cụ cho kẻ thù của mình.

Ông Trương Ba hiền lành, tốt bụng, tốt bụng và rất khỏe mạnh. Dù cuộc đời chưa hết nhưng anh đã phải chết thay một con người xấu xa, bất nhân, dối trá và tham lam chỉ vì tác phong làm việc cẩu thả của mình, vô trách nhiệm, muốn kết liễu đời mình.

c. giống và khác nhau của hai tác phẩm:

– Ở Chí Phèo, khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, Nam Cao không đi sâu vào quá trình nghèo khổ của tầng lớp nông dân – mặc dù trong thực tế đó là hiện thực phổ biến.

Nhà văn trăn trở nhiều hơn về một hiện thực còn bi đát hơn, đó là sự tha hóa… Cũng như Chí Phèo, Trương Ba trước đây là một con người hoàn toàn khác. Trương Ba là một người nông dân cần cù, khéo léo, yêu thương vợ con, quý cháu, nhân hậu với xóm giềng, yêu cây cỏ…

Từ khi sống trong thân xác anh hàng thịt, Trương Ba đã bị thân xác anh hàng thịt điều khiển, chi phối: trở nên lôi thôi, thô tục, thô kệch, luộm thuộm; mê bán thịt, nghiện rượu, thủ đoạn của hắn không còn phóng khoáng mà lưu manh, vô hồn… Nếu Chí Phèo hư mà không biết mình hư thì Trương Ba nhận ra cảnh ngộ của mình.

– Hành động cuối cùng Chí Phèo giết Bá Kiến rồi tự sát là hành động liều lĩnh. Cuối cùng, Chí đã hiểu bi kịch – tội ác của đời mình.

Mối quan hệ của Nam Cao với Bá Kiến – Chí Phèo trở nên căng thẳng, mối tình dang dở với Thị Nở cũng là cách đổ thêm dầu vào lửa, biến cơn say, nỗi buồn, sự đau khổ trong Chí Phèo thành sự đau lòng. Căm hận, uất ức, quyết tìm cách trả thù nhà Thị Nở.

Pháp luật không như vậy, pháp luật lôi Chí đi nhưng là đến nhà Bá Kiến chứ không phải ai khác. Người đáng giết là Bá Kiến. Với cách kết thúc truyện ngắn quá đột ngột, Nam Cao cho ta thấy một kết thúc tất yếu. Và Trương Ba ngày càng sáng suốt hơn trong việc lựa chọn sự sống – cái chết.=> Qua việc lựa chọn hình thức chết có phần khác nhau như trên của Trương Ba và Chí Phèo, ta thấy được quan niệm của hai tác giả về giá trị đích thực của đời người. Nam Cao và “Chí Phèo” muốn chỉ ra quan niệm về giá trị đích thực của cuộc sống con người trong xã hội có mâu thuẫn giai cấp và mâu thuẫn giữa nông dân với địa chủ, nhất là những người nông dân trưởng thành đến đây sâu sắc và tất yếu (trước cách mạng). Nhưng hành động kiên quyết không nhập xác và chọn cái chết để trả xác cho anh hàng thịt Trương Ba trong vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” lại dẫn đến vấn đề về giá trị đích thực của cuộc sống. hiện thực của con người hiện đại. Nó cũng gợi mở cách sống đúng đắn đem lại hạnh phúc, sự thanh thản cho tâm hồn con người.

1.3. Kết bài:

– Khẳng định lại giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo của vở kịch Hồn Trương Ba da hàng thịt, liên hệ thực tế.

2. Bài phân tích Bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo và hồn Trương Ba hay nhất:

Nam Cao là nhà văn lớn, có nhiều đóng góp quan trọng cho nền văn học nước nhà. Nếu để chọn ra ba tác giả văn xuôi Việt Nam nổi tiếng nhất thế kỷ 20, chắc chắn không thể thiếu ông – nhà văn của trí thức, của những người nông dân nghèo khổ, cơ cực. Và nếu phải chọn ba kiệt tác của Nam Cao thì không thể không có “Chí Phèo”. Chỉ với vài câu, không quá nhiều câu nhưng người viết đã gửi đến mọi người những thông điệp vô cùng ý nghĩa. Lưu Quang Vũ được coi là một trong những nhà viết kịch tài năng nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông là tác giả của gần 50 vở kịch, trong đó có những vở gây chấn động dư luận như “Lời thề thứ 9”, “Tôi và chúng ta”, “Hồn Trương Ba, da hàng thịt”… Kịch của Lưu Quang Vũ phản ánh những bức xúc của thời gian, đồng thời mang tính triết lý sâu sắc. Truyện ngắn “Chí Phèo” của Nam Cao và vở kịch “Hồn Trương Ba, da hàng thịt” của Lưu Quang Vũ ra đời trong những hoàn cảnh lịch sử, xã hội khác nhau nhưng đều đề cập đến những bi kịch của con người.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về bi kịch. Bi kịch thường được coi là trạng thái đau khổ về tinh thần khi con người đứng trước những mâu thuẫn không thể điều hòa được, khi ước muốn, khát vọng và thực tại hoàn toàn đối lập nhau. Bây giờ, nó đã thay đổi ý nghĩa rất nhiều so với ban đầu. Tha hóa được hiểu là sự mất đi giá trị, bản chất bình thường vốn có. Chúng ta vẫn quen dùng hai từ đó để chỉ những thứ thuộc về con người và hoạt động của con người, liên quan đến chủ thể con người, theo một cách không tốt. Vì những lý do khác nhau, cả Chí Phèo và Trương Ba, hai nhân vật trung tâm trong hai tác phẩm đều rơi vào bi kịch đau đớn của sự xa lánh.

Trong tác phẩm Chí Phèo, khác với các nhà văn hiện thực phê phán đương thời, Nam Cao không đi sâu miêu tả quá trình đói khổ của người nông dân, mặc dù trong thực tế đó cũng là một sự thật. Nhà văn trăn trở và suy ngẫm nhiều hơn về một hiện thực còn thảm khốc hơn cả cái nghèo và cái đói. Đó là sự tha thứ.

Tác phẩm mở đầu bằng lời nguyền bất chấp của Chí. Hắn chửi trời, chửi đời, chửi làng Vũ Đại, chửi những người không nguyền rủa nhau với hắn, và cuối cùng là nguyền rủa người đã sinh thành ra hắn. Đây là lời nguyền của một kẻ say rượu, một lời nguyền vô thức. Nhưng đôi khi trong vô thức, người ta bộc lộ bản thân nhiều hơn khi tỉnh táo. Qua tiếng chửi của Chí Phèo, người đọc có cảm giác như đang đối mặt với một “con người-quái vật” độc ác trong ngày tận thế. Qua tiếng chửi của Chí, người đọc nhận ra ba thái độ khác nhau: Thái độ thù địch, hận thù và đau khổ của Chí, thái độ khinh người dửng dưng, thái độ phẫn nộ và đồng cảm của tác giả. Giọng văn nhân từ của nhà văn đã đánh thức trái tim người đọc. Qua lời dẫn dắt của người kể chuyện, người đọc hiểu Chí trước đây hiền lành, thật thà, giàu lòng tự trọng. Anh từng mơ ước được sống bằng đôi bàn tay lao động của mình với “một gia đình nhỏ, vợ chồng tôi đi cày, vợ tôi dệt vải…”. Vừa ra tù về, Chí như biến thành một con người hoàn toàn khác “Đầu hói, răng cạo trắng hơn…”, khuôn mặt cũng khác “không già, không trẻ, không còn vẻ người, mặt người”. Sau khi đi tù về, hắn trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Những cơn say triền miên đã cướp đi những tháng ngày của anh: “Say ăn, ngủ, say tỉnh dậy, đập đầu, chửi bới, rạch mặt…”. Trong cơn say, hắn đã phá nát bao cơ nghiệp, đập nát bao cảnh hạnh phúc, làm bao người dân lương thiện phải đổ máu, rơi lệ. Chí Phèo đã trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nhưng anh ta không bao giờ nhận ra sự thật phũ phàng đó, anh ta thậm chí còn khoe khoang “Không có anh hùng nào khác trong dinh thự này thích tôi”. Sự xa lánh in sâu vào hình thức trong ngôn ngữ trong hành động và trong nhận thức của nhân vật về mình. Chí rơi vào trạng thái hoang mang mà không hề hay biết.

Bị đối xử dã man, Chí phản kháng. Đó là “sự phẫn nộ đen tối” như Lênin đã nói. Trong “Chí Phèo”, Nam Cao đã chỉ ra rằng Chí Phèo cũng không ngoại lệ. Xã hội không chỉ sinh ra Chí Phèo mà còn tiếp tục nuôi dưỡng Chí Phèo, biến những con người như Chí Phèo thành công cụ thống trị xã hội.

Cũng như Chí Phèo, trước đó Trương Ba là một con người hoàn toàn khác. Trương Ba là một người nông dân cần cù, khéo léo, yêu vợ, thương con, quý cháu, nhân hậu với xóm giềng, yêu cây cỏ… Từ khi sống trong thân xác anh hàng thịt, Trương Ba trở nên vụng về, trơ trẽn, thô bỉ, thô lỗ, nhẫn tâm… Trương Ba thích bán thịt, uống rượu, cư xử không còn phóng khoáng mà nhỏ nhen, vô hồn… Trương Ba bị xác thịt điều khiển, chi phối. Nếu như Chí Phèo tha hóa mà không biết mình tha hóa thì Trương Ba lại ý thức rất rõ cảnh ngộ của mình. Dù không muốn thừa nhận, dù muốn níu kéo cuộc đấu trí, Trương Ba vẫn không thể phủ nhận sự thật rằng mình đang đánh mất chính mình. Anh tìm mọi cách để lấn át tôi. Cuộc đối thoại thẳng thắn giữa hồn Trương Ba và anh hàng thịt đã thể hiện khá sâu sắc tâm trạng hoang mang, hoài nghi và bất lực của con người. Tuy nhiên, lập luận hùng hồn nhưng thuyết phục của anh hàng thịt “Chúng ta đã trở thành một”. Dù khinh bỉ thân xác anh hàng thịt nhưng Trương Ba vẫn phải trở về làm bạn với anh xác người bán thịt. Sự thay đổi của hồn Trương Ba trong thời gian sống trong thân xác anh hàng thịt càng thể hiện rõ.

Lưu Quang Vũ đã khéo léo mượn lời của một nhân vật khác – gia đình Trương Ba để chỉ ra điều này. Hồn Trương Ba không còn là người làm vườn chăm chỉ, hết lòng yêu thương vợ con như trước. Ông cũng không quan tâm đến dân làng. Hồn Trương Ba thô lỗ, hà khắc không còn dịu dàng, khéo léo khi sửa diều, chăm cây như trước. Ngay cả người chị dâu, người đồng cảm với hoàn cảnh của hồn Trương Ba, cũng buồn và ngạc nhiên vì không còn thấy hình ảnh Trương Ba “nhân hậu, vui vẻ” trước kia nữa. Những dòng sau của Trương Ba với Đế Thích chứng tỏ nhân vật đã có nhận thức rất cao và sâu sắc về hoàn cảnh trớ trêu của mình: “Ngài nghĩ đơn giản là để ta sống, nhưng sống thế nào chàng không cần biết. “.

Chí Phèo đồi bại đã gây ra biết bao bi kịch cho dân làng. Và hồn Trương Ba trở thành tâm điểm của sự rối ren. Không chỉ hồn Trương Ba hay gia đình anh đau khổ mà còn rất nhiều gia đình khác, nhiều mảnh đời khác cũng bị lung lay, ảnh hưởng. Sai lầm bắt đầu từ những vị thánh, những người làm chủ số phận con người và rồi chính con người với sự tráo trở, thỏa hiệp và xấu xa lại càng khiến mọi thứ rối ren hơn.

Khắc họa sinh động, rõ nét bi kịch tha hóa của Chí Phèo, Nam Cao đã bộc lộ cái nhìn hiện thực sắc bén, đồng thời thể hiện sự đồng cảm, thấu hiểu sâu sắc về cuộc đời người nông dân. Ông đã cho các tác phẩm của mình sức mạnh khám phá. Trước Nam Cao, các nhà văn hiện thực chỉ quan tâm đến sự bần cùng hóa. Trước Nam Cao, Nguyên Hồng chỉ phản ánh và miêu tả bọn côn đồ thành thị. Hiện tượng tha hóa, lưu manh ở nông thôn với những đặc điểm riêng và ý nghĩa quan trọng của nó lần đầu tiên được Nam Cao chú ý và miêu tả một cách tập trung, rõ nét. Ông lấy văn học hiện thực 1930-1945 làm tấm gương nông dân, vạch trần bản chất nông thôn đen tối trước Cách mạng. Đối với Lưu Quang Vũ, sự tha hóa của hồn Trương Ba cũng là một thực tế nhức nhối trong xã hội. Con người “muốn ăn xác/ Muốn ăn cả hồn” (Chế Lan Viên). Nhưng bi kịch Trương Ba cũng gợi lên những suy ngẫm về mối quan hệ giữa hồn và xác, giữa ý thức và bản năng. Ai là con người hoàn thiện? Chủ nghĩa vật chất có phải là một tội ác ghê tởm? Vở kịch do đó có cả ý nghĩa xã hội và triết học.

Điều hai nhà văn muốn nói qua bi kịch tha hoá không chỉ có vậy. Chắc bạn đọc còn nhớ một ý kiến rất sâu sắc của Nguyễn Minh Châu: Hiện nay, nhiều người đang sống trong thế rất khó xử giữa một bản án lịch sử và một bản án nghiệt ngã. Nam Cao, Lưu Quang Vũ đã gióng lên hồi chuông cảnh tỉnh cho mỗi chúng ta. Bởi nhiều khi chúng ta vừa là nạn nhân, vừa là thủ phạm mà ít khi trở thành quan tòa của chính mình.

3. Bài phân tích Bi kịch tha hóa của hai nhân vật Chí Phèo và hồn Trương Ba ấn tượng nhất:

Sinh ra trong những thời đại và bối cảnh lịch sử khác nhau nên cách nhìn nhận các vấn đề xã hội của Nam Cao và Lưu Quang Vũ cũng rất khác nhau. Nếu như bản thân Nam Cao trước cách mạng thường tập trung lý giải đề tài người nông dân nghèo và người trí thức bằng con mắt và giọng điệu lạnh lùng nhưng đau đáu. Nam Cao đã chỉ ra hiện thực xã hội trước cách mạng cũng như bi kịch của những con người bất hạnh như Chí Phèo về sự xa lánh bóng tối và sự áp bức tàn ác của chế độ. Bản thân Lưu Quang Vũ viết khi cách mạng thành công, đất nước đang trong thời kỳ chuyển mình sau chiến tranh, bản thân tác giả cũng có những cái nhìn mới về con người và xã hội lúc bấy giờ. Sự tha hoá không còn do hiện thực xã hội tàn khốc mà là sự thối nát đến từ lòng tham và sự sa ngã của con người trước những giá trị trần tục, tầm thường qua nhân vật Hồn Trương Ba. Có thể thấy, tuy đề tài, chủ đề, thể loại của bản tuyên ngôn có khác nhau nhưng suy cho cùng cả Nam Cao và Lưu Quang Vũ đều hướng đến cùng một “nghệ thuật vì đời”, cùng một bi kịch tha hóa nhân cách.

Điểm chung của Chí Phèo và hồn Trương Ba là xa lánh người tốt, người lương thiện đến mức xấu xa, ghê gớm để rồi bị mọi người, xã hội chối bỏ một cách đau đớn. Và cuối cùng, trước bi kịch tha hóa của chính mình, họ đã chiến thắng, giành lại thiên tính nhưng cái giá phải trả quá đắt. Khi Chí Phèo quyết giết Bá Kiến để trả thù rồi tự sát, chính hồn Trương Ba đã chọn cách rời khỏi xác anh hàng thịt, không chịu nhập hồn vào cu Tí và ra đi mãi mãi. Có thể nói, hành trình hướng đến bi kịch tha hóa của hai nhân vật này khác nhau ở nhiều điểm, nhưng cách họ giải quyết vấn đề, dù cực đoan nhưng lại để lại ấn tượng sâu sắc trong lòng người đọc, chính vì bi kịch đó, không còn lựa chọn nào khác là kết thúc cuộc sống.

Bi kịch của Chí Phèo có lẽ bắt đầu từ lúc hắn sinh ra, một đứa trẻ bị bỏ rơi trong cái lò gạch cũ, được cả làng Vũ Đại nuôi nấng. Anh cũng trở thành một thanh niên đẹp trai, hiền lành, thật thà và chăm chỉ. Nhưng có lẽ chính vẻ ngoài trẻ trung, năng động và thật thà ấy đã khiến Chí Phèo phải chịu bi kịch, xã hội này dường như không cho phép những người nghèo được sống đàng hoàng. Sự trác táng và thói ghen tuông độc ác của Bá Kiến đã đẩy Chí Phèo vào nhà tù thực dân thối nát – nhà tù mà người ra vào như quỷ sứ. 7, 8 năm trôi qua, Chí Phèo trở lại với bộ dạng gớm ghiếc ” Đầu trọc, răng cạo trắng, mặt đen nhưng rất nặng, đôi mắt sắc lạnh, chỉ thấy người ta liên tục nhấn từ “nhìn ghê quá” để bày tỏ sự ngạc nhiên, nghi ngờ về một con người không biết có phải Chí già hiền lành hay không. Ngục tù thực dân khủng khiếp, gần chục năm nay nó trở lại làng Vũ Đại một tên côn đồ chính hiệu mới ra tù, từ trưa đã ra chợ uống rượu mận thịt, chiều nó còn khiếp hơn khi Chí Phèo đến nhà Bá Kiến gây sự, lúc đầu hắn chửi bới nhưng tiếc là mọi người chỉ tò mò mà không ai dám trả lời hắn. Chửi không được, hắn lao vào đánh nhau với Lý Cường, chán hắn quyết định nằm xuống. Nhưng liệu người ta có hình dung được Chí Phèo ghê gớm đến mức nào, đập vỡ bầu rượu rồi dùng mảnh sành rạch vào khuôn mặt bê bết máu của mình. Đâu còn một Chí hiền lành chăm chỉ, chỉ còn là một Chí Phèo lưu manh, mất hết tủi nhục trong nhà tù khốn khổ của bọn thực dân, trở thành một kẻ tha hóa cả về nhân phẩm lẫn nhân phẩm. Và rồi sự thâm độc, thủ đoạn đê hèn của Bá Kiến đã dễ dàng dụ dỗ Chí Phèo trở thành tay sai của hắn, Chí Phèo bước vào con đường đâm thuê chém mướn, bán rẻ linh hồn mình để đổi lấy vài đồng. Anh ngày càng lún sâu vào bi kịch tha hóa, trượt dài trên con đường tội lỗi, cùng những cơn say triền miên nhiều năm không tỉnh. Và khi anh ấy say, anh ấy sẽ làm bất cứ điều gì anh ấy nói. Chí Phèo bây giờ không phải là một tên côn đồ thích uống rượu, ăn thịt chó, rạch mặt ăn vạ mà trở thành con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Đồng lương ít ỏi tự nhiên để lại sau khi ra tù đã bị rượu và tay sai của hắn chà đạp, giết chết. Từ bi kịch bị tha hóa, Chí Phèo tiếp tục bị đẩy vào bi kịch đau đớn nhất của cuộc đời hắn, hắn bị cự tuyệt quyền làm người. Khi tình yêu với Thị Nở trở thành niềm hy vọng duy nhất nối anh với thế giới, là cơ hội duy nhất để anh quay về với hai chữ “lương thiện”. Nhưng ai cho anh “lương thiện” khi anh phải nhận những lời chua cay cay đắng của cô thốt ra trước sự điên dại, uất hận: “Đàn ông chết cả rồi, sao lại đâm đầu vào? Ai lấy thằng không cha? .”

Cuối cùng, khát vọng được làm lương thiện, được “làm hòa” với mọi người của Chí Phèo vỡ tan như một loại bong bóng xà phòng, đẹp nhưng không chịu được va đập, anh nhận ra rằng cuộc đời mình trải qua 40 năm cuộc đời, trong đó có 20 năm chìm đắm trong rượu chè thực sự khiến anh không thể quay lại thời điểm năm 20 tuổi, đã ruồng bỏ hắn, không còn coi hắn là một con người cần được yêu thương, thấu hiểu. Lúc này, Chí Phèo không còn gì hơn là chọn cái chết để giải thoát cho mình, nhưng sớm muộn gì hắn cũng phải trả thù, kẻ gây ra mọi nỗi đau cho mình – Bá Kiến.

Tiếp theo bi kịch bị xa lánh là bi kịch Trương Ba bị chính người thân của mình chối bỏ, bi kịch này không cay nghiệt và ghê gớm như Chí Phèo nhưng lại khiến một con người như Trương Ba vô cùng đau khổ. Nỗi đau ăn mòn con tim. Suốt cuộc đời, ông luôn được mọi người yêu quý, kính trọng nhưng giờ đây sự yêu thương, kính trọng ấy đã bị thay thế bằng sự sợ hãi, xa lánh, bắt đầu từ việc muốn bỏ nhà vợ, rồi bỏ vợ. Người con muốn bán mảnh vườn thân yêu của mình để mở hàng thịt, nhưng bị đứa cháu mắng “cháu không phải cháu bà”, rồi kể hết những việc lén lút, lỗ mãng mà mình đã làm trong đời. Có thể nói, đây là những diễn biến bất ngờ đối với hồn Trương Ba, một đòn chí tử, khiến anh không thể phủ nhận về sự tha hóa và đau khổ của mình. Sự trở lại kỳ lạ, thậm chí là sự sa sút của anh đã khiến một gia đình từng yên ấm hạnh phúc bỗng trở nên sóng gió, tan vỡ, ai nấy đều sống trong dằn vặt. Cuối cùng, trước sự thú nhận, thú nhận của cô con dâu, một người tuy không cùng huyết thống nhưng lại thấu hiểu nỗi lòng của ông, cũng như nỗi đau lòng của cả nhà lúc này chính là hồn Trương Ba. Việc linh hồn và thể xác không thể chung sống với nhau mãi mãi, sự chi phối của thể xác đã khiến anh và gia đình vô cùng đau khổ. Còn gì đau đớn hơn khi con người không được sống đúng với bản chất của mình mà như Trương Ba đã nói với Đế Thích “Ta muốn được toàn vẹn”. Biết hồn Trương Ba đau lòng nhưng Đế Thích vẫn không tỉnh dậy mà tiếp tục đề nghị nhập xác bé Tí, đứa trẻ đã lên mười tuổi, để hồn Trương Ba tiếp tục trú ngụ và sinh sống. nhiều ngày và nhiều ngày.  Đồng thời, nhân vật cũng đua ra một sự thật vô cùng đắt giá “Có sai lầm không thể sửa chữa. Buộc chắp vá chỉ mắc thêm sai lầm”, và anh chính là minh chứng rõ ràng nhất, liệu anh có thực sự đã chết? Có lẽ gia đình giờ đã trở lại những tháng ngày êm đềm và họ vẫn sẽ yêu thương, kính trọng anh như khi anh còn sống chứ không xa lánh, sợ hãi như thế này nữa.

Tuy Chí Phèo và hồn Trương Ba có hai kiểu tha hóa khác nhau nhưng cái chung nhất là họ luôn tỉnh thức, ý thức được sự tha hóa của chính mình, đồng thời đấu tranh mạnh mẽ để quay trở lại với những giá trị nguyên bản của con người, giữ lại bản chất cao quý và tươi đẹp. Chí Phèo vì bị áp bức của xã hội phong kiến tàn ác, bị biến thành yêu tinh nên quyết định chết để thoát khỏi số phận bi thảm, anh không muốn sống cuộc đời đau khổ, dằn vặt và cô đơn đó nữa. Còn hồn Trương Ba, vì sơ suất của người trên mà phải chịu cảnh hồn, xác, người khác, đau khổ, dằn vặt, bị người thân xa lánh nên cũng quyết định từ giã cõi đời sống trong hòa bình, giữ cho mình một tâm hồn trong sáng, thuần khiết. Suy cho cùng, con người ở thời đại nào, hoàn cảnh nào cũng luôn đấu tranh cho chữ thiện, đó là niềm tin, tư tưởng mà Nam Cao, Lưu Quang Vũ muốn gửi gắm trong tác phẩm của mình.

Theo dõi chúng tôi trên
5/5(1
bình chọn
)

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com