Tòa án nhân dân là đơn vị xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân. Bài viết dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu đến quý bạn đọc về hệ thống Tòa án theo Hiến pháp 2013. Mời bạn đọc cùng cân nhắc nội dung nội dung trình bày bên dưới.
Hệ Thống Tòa Án Theo Hiến Pháp 2013 Được Quy Định Như Thế Nào?
1. Tòa án được quy định thế nào trong hiến pháp Việt Nam
Điều 3 Luật tổ chức tòa án nhân dân quy định
Tòa án nhân dân gồm có
1. Tòa án nhân dân tối cao.
2. Tòa án nhân dân cấp cao.
3. Tòa án nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương.
4. Tòa án nhân dân huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh và tương đương.
5. Tòa án quân sự.
Tại điều 102 ,103 Hiến pháp năm 2013 quy định
Điều 102
1. Tòa án nhân dân là đơn vị xét xử của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp.
2. Tòa án nhân dân gồm Tòa án nhân dân tối cao và các Tòa án khác do luật định.
3. Tòa án nhân dân có nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân, bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân.
Điều 103
1. Việc xét xử sơ thẩm của Tòa án nhân dân có Hội thẩm tham gia, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
2. Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm đơn vị, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm.
3. Tòa án nhân dân xét xử công khai. Trong trường hợp đặc biệt cần giữ bí mật nhà nước, thuần phong, mỹ tục của dân tộc, bảo vệ người chưa thành niên hoặc giữ bí mật đời tư theo yêu cầu chính đáng của đương sự, Tòa án nhân dân có thể xét xử kín.
4. Tòa án nhân dân xét xử tập thể và quyết định theo đa số, trừ trường hợp xét xử theo thủ tục rút gọn.
5. Nguyên tắc tranh tụng trong xét xử được bảo đảm.
6. Chế độ xét xử sơ thẩm, phúc thẩm được bảo đảm.
7. Quyền bào chữa của bị can, bị cáo, quyền bảo vệ lợi ích hợp pháp của đương sự được bảo đảm.
2. Tại sao tính độc lập của toà án lại cần thiết?
Tính độc lập của tòa án (độc lập tư pháp) là một nguyên tắc quan trong bậc nhất của tất cả các nguyên tắc điều chỉnh việc tổ chức và hoạt động của tòa án. Sự độc lập này còn có nghĩa là cả hệ thống Tòa án với tư cách là một thiết chế, cũng như từng thẩm phán giải quyết các vụ việc phải có khả năng thực hiện trách nhiệm nghề nghiệp của mình mà không chịu ảnh hưởng của các nhánh quyền lực lập pháp và hành pháp. Dựa trên nguyên tắc phân quyền, quyền lực của Tòa án phải được tách rời khỏi sự ảnh hưởng của quyền lực lập pháp và hành pháp. Sự tách quyền tư pháp ra khỏi quyền lập pháp và nhất là hành pháp là một thành công rất lớn của cách mạng dân chủ tư sản.Mục đích của nguyên tắc Tòa án độc lập là làm cho thẩm phán được tự do trong xét xử để Tòa án thuận tiện hơn trong việc phục vụ công lý, bảo vệ quyền lợi của các bên. Tính độc lập của Tòa án thể hiện ở việc Tòa án phải có quyền quyết định các vụ việc một cách vô tư, không thiên vị, dựa trên bản chất của sự việc và theo luật pháp mà không chịu những hạn chế, tác động hay ảnh hưởng không phù hợp, hoặc sự dụ dỗ, đe dọa hay can thiệp sai trái, một cách trực tiếp hay gián tiếp, từ bất cứ chủ thể nào, với bất cứ lý do nào. Thêm vào đó, Tòa án phải có quyền tài phán đối với mọi vấn đề thuộc thẩm quyền xét xử và phải có quyền lực riêng để quyết định xem một vụ việc được trình lên Tòa án có thuộc thẩm quyền của Tòa theo như luật pháp quy định được không.Nguyên tắc này được sinh ra do đòi hỏi phải thực hiện chức năng xét xử một cách công bằng. Ngay từ tác phẩm “Tinh thần pháp luật” (1748), Montesquieu đã cảnh báo về sự nguy hiểm của việc không tách rời các quyền tư pháp với các quyền lập pháp và hành pháp. Sự độc lập của toà án khỏi lập pháp và hành pháp là một trong những bảo đảm cần thiết đối với nguyên tắc bình đẳng, bảo vệ các quyền con người, chống lại tình trạng tham nhũng, lợi dụng quyền lực của những nhà cầm quyền. Trong cơ câu bộ máy nhà nước, lập pháp và hành pháp bao giờ cũng phải phôi hợp với nhau ở mức độ nhất định, nhưng tư pháp phải luôn riêng rẽ để có thế phán xét về sự sự đúng sai của hai ngành quyền lực kia.
3. Quy định về tính độc lập của tòa án trong hiến pháp Việt Nam
Các bản Hiến pháp của Việt Nam đều có quy định về sự độc lập của Tòa án. Nhưng đi vào chi tiết thì nguyên tắc này được quy định trong các Hiến pháp rất khác nhau: Hiến pháp năm 1946 quy định “Khi xét xử các thẩm phán chỉ tuân theo pháp luật, các đơn vị khác không được can thiệp”; Hiến pháp năm 1959 viết: “Khi xét xử, Tòa án nhân dân có quyền độc lập và chỉ tuân theo pháp luật”; Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 quy định: “Khi xét xử, thẩm phán và hội thẩm độc lập chỉ tuân theo pháp luật”. Hiến pháp mới được thông qua năm 2013 có quy định tương tự:“Thẩm phán, Hội thẩm xét xử độc lập và chỉ tuân theo pháp luật; nghiêm cấm đơn vị, tổ chức, cá nhân can thiệp vào việc xét xử của Thẩm phán, Hội thẩm” (Điều 103).
Ở nghĩa hẹp nhất của các thuật ngữ trong các quy định nói trên có thể được hiểu chính xác rằng, Tòa án chỉ có thể độc lập trong thời gian diễn ra việc xét xử, còn ngoài thời gian xét xử, mọi vấn đề liên quan đến Tòa án, thẩm phán, hội thẩm nhân dân không cần thiết phải độc lập. Do vậy, khó có thể làm cho Tòa án độc lập trên thực tiễn. Như trên đã phân tích, nguyên tắc độc lập của Tòa án không chỉ giản đơn nằm ở trong thời gian xét xử, mà phần lớn phải ở ngoài thời gian xét xử. Muốn xét xử độc lập thì thiết chế phải độc lập, thẩm phán phải độc lập cả ngoài thời gian xét xử. Cho đến nay, dù chúng ta đã có sự phân công phân nhiệm rạch ròi giữa các đơn vị lập pháp, hành pháp và tư pháp, nhưng trên thực tiễn vẫn chưa thể thay đổi những biểu hiện đã quá quen thuộc của nguyên tắc tập quyền xã hội chủ nghĩa.
Điều 102 Hiến pháp 2013 quy định: Tòa án nhân dân là đơn vị xét xử của nước Cộng hòa XHCN Việt Nam, thực hiện quyền tư pháp. Đây là điểm mới nổi bật, vì trong lịch sử lập hiến Việt Nam chưa bao giờ có sự thừa nhận quyền tư pháp do Tòa án thực hiện, tương tự như ở các nhà nước phát triển. Và hơn nữa, cũng là lần đầu tiên Hiến pháp quy định rõ nhiệm vụ bảo vệ công lý, bảo vệ quyền con người, quyền công dân của Tòa án nhân dân lên trước và lên trên nhiệm vụ bảo vệ chế độ như quy định của các Hiến pháp trước đây. Đó là những điểm rất sáng của Hiến pháp mới.
Trên đây là toàn bộ nội dung tư vấn của chúng tôi liên quan đến quy định về Hệ thống Tòa án theo Hiến pháp 2013. Nếu bạn đọc có bất kỳ câu hỏi pháp lý liên quan, vui lòng liên hệ với chúng tôi để được hỗ trợ tư vấn nhanh chóng.