Khoản 1 điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Trả lại đơn khởi kiện là bước rất cần thiết trong quá trình giải quyết tranh chấp tại Tòa án. Các quy định của pháp luật tố tụng dân sự về trả lại đơn khởi kiện có ý nghĩa rất lớn, góp phần đáng kể trong quá trình giải quyết vụ án một cách dễ dàng, tạo điều kiện cho đương sự bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của mình một cách kịp thời. Trường hợp thẩm phán trả lại đơn khởi kiện được quy định tại Khoản 1 điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015. Sau đây là nội dung chi tiết về Khoản 1 điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015.

Khoản 1 điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

1. Nội dung Khoản 1 điều 192 Bộ luật tố tụng dân sự 2015

Điều 192. Trả lại đơn khởi kiện, hậu quả của việc trả lại đơn khởi kiện

1. Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện trong các trường hợp sau đây:

a) Người khởi kiện không có quyền khởi kiện theo hướng dẫn tại Điều 186 và Điều 187 của Bộ luật này hoặc không có đủ năng lực hành vi tố tụng dân sự;

b) Chưa có đủ điều kiện khởi kiện theo hướng dẫn của pháp luật.

Chưa có đủ điều kiện khởi kiện là trường hợp pháp luật có quy định về các điều kiện khởi kiện nhưng người khởi kiện đã khởi kiện đến Tòa án khi còn thiếu một trong các điều kiện đó;

c) Sự việc đã được giải quyết bằng bản án, quyết định đã có hiệu lực pháp luật của Tòa án hoặc quyết định đã có hiệu lực của đơn vị nhà nước có thẩm quyền, trừ trường hợp vụ án mà Tòa án bác đơn yêu cầu ly hôn, yêu cầu thay đổi nuôi con, thay đổi mức cấp dưỡng, mức bồi thường tổn hại, yêu cầu thay đổi người quản lý tài sản, thay đổi người quản lý di sản, thay đổi người giám hộ hoặc vụ án đòi tài sản, đòi tài sản cho thuê, cho mượn, đòi nhà, đòi quyền sử dụng đất cho thuê, cho mượn, cho ở nhờ mà Tòa án chưa chấp nhận yêu cầu và theo hướng dẫn của pháp luật được quyền khởi kiện lại;

d) Hết thời hạn quy định tại khoản 2 Điều 195 của Bộ luật này mà người khởi kiện không nộp biên lai thu tiền tạm ứng án phí cho Tòa án, trừ trường hợp người khởi kiện được miễn hoặc không phải nộp tiền tạm ứng án phí hoặc có trở ngại khách quan, sự kiện bất khả kháng;

đ) Vụ án không thuộc thẩm quyền giải quyết của Tòa án;

e) Người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo yêu cầu của Thẩm phán quy định tại khoản 2 Điều 193 của Bộ luật này.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện đã ghi trọn vẹn và đúng địa chỉ nơi cư trú của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan nhưng họ không có nơi cư trú ổn định, thường xuyên thay đổi nơi cư trú, trụ sở mà không thông báo địa chỉ mới cho đơn vị, người có thẩm quyền theo hướng dẫn của pháp luật về cư trú làm cho người khởi kiện không biết được nhằm mục đích che giấu địa chỉ, trốn tránh nghĩa vụ đối với người khởi kiện thì Thẩm phán không trả lại đơn khởi kiện mà xác định người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan cố tình giấu địa chỉ và tiến hành thụ lý, giải quyết theo thủ tục chung.
Trường hợp trong đơn khởi kiện, người khởi kiện không ghi trọn vẹn, cụ thể hoặc ghi không đúng tên, địa chỉ của người bị kiện, người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan mà không sửa chữa, bổ sung theo yêu cầu của Thẩm phán thì Thẩm phán trả lại đơn khởi kiện;

g) Người khởi kiện rút đơn khởi kiện.

2. Hạn chế pháp luật về trả lại đơn khởi kiện

Việc người khởi kiện không sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện theo hướng dẫn tại điểm b khoản 1 điều 192 chính là trường hợp không có đủ điều kiện khởi kiện vì không thỏa mãn điều kiện về cách thức, nội dung đơn khởi kiện.

Cách hiểu này là chưa hợp lý. Việc chưa đủ điều kiện khởi kiện phải hiểu là đương sự có quyền khởi kiện nhưng tại thời gian khởi kiện họ chưa thỏa mãn các điều kiện mà pháp luật quy định. Hay nói cách khác, quyền khởi kiện trong trường hợp này bị hạn chế. Khi nào điều kiện khởi kiện đó thỏa mãn thì họ lại được tiếp tục khởi kiện. Đó là các trường hợp pháp luật nội dung quy định chứ không phải là không thỏa mãn về cách thức đơn khởi kiện. Vì vậy không nên coi việc không thỏa mãn được các quy định về cách thức, nội dung đơn khởi kiện là trường hợp không có đủ điều kiện khởi kiện để trả lại đơn khởi kiện. Trong trường hợp này, tòa án vẫn thụ lý vụ án, đồng thời yêu cầu người khởi kiện sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện.

Trong thực tiễn nhiều tòa án trả lại đơn khởi kiện không có căn cứ theo hướng dẫn cả điều 192 BLTTDS 2015. Ví dụ như trả lại đơn khởi kiện vì lý do việc kiện đã được đơn vị bảo hiểm xã hội giải quyết, hoặc vì lý do Sở lao động-Thương binh và xã hội tỉnh đang thụ lý giải quyết vụ việc. Theo quy định của Bộ luật lao động, Luật bảo hiểm xã hội và BLTTDS thì đơn vị bảo hiểm xã hội không phải là đơn vị nhà nước có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động, do đó quyết định giải quyết khiếu nại của đơn vị bảo hiểm xã hội không phải là cơ sở để tòa án không thụ lý vụ kiện, việc thụ lý đơn khiếu nại của các đơn vị này không hạn chế quyền khởi kiện của các bên tranh chấp.

Về cách thức văn bản trả lại đơn khởi kiện nên quy định rõ cách thức văn bản là quyết định, như vậy mới phù hợp với luật ban hành văn bản quy phạm pháp luật. Tham khảo pháp luật của một số nước về cách thức văn bản thấy hầu hết các hành vi tố tụng do thẩm phán tiến hành đều thể hiện dưới cách thức văn bản là quyết định và đều có thể bị khiếu nại. Cho dù là ai thực hiện hành vi trả lại đơn khởi kiện cho đương sự thì văn bản do Tòa án phát ra đều có chữ ký và con dấu của Tòa án đó. Mà thực tiễn chỉ có những người có chức danh trong Tòa án mới có quyền ký tên, đóng dấu; do đó, khi trả lại đơn khởi kiện nên ra bằng cách thức quyết định là thích hợp nhất.

Tại điểm d khoản 3 điều 191 quy định về việc tòa ra quyết định trả lại đơn khởi kiện cho người khởi kiện nếu việc đó không thuộc thẩm quyền giải quyết của tòa là không hợp lý. Bởi xét trong cấu trúc bộ luật, đã có một điều quy định cụ thể về các trường hợp trả lại đơn khởi kiện (Điều 192), và trả lại đơn khởi kiện nếu việc không thuộc thẩm quyền của tòa là điểm đ khoản 1 Điều này. Vì vậy, có thể thấy, cùng một vấn đề, có hai điều luật cùng quy định, dẫn đến tình trạng lặp, không thống nhất. Nên Điều 191 khoản 3 nên sửa thành: “Trả lại đơn cho người khởi kiện, theo hướng dẫn của pháp luật”, và Điều 192 sẽ cụ thể hóa các trường hợp đó.

3. Hướng hoàn thiện pháp luật về trả đơn khởi kiện

Pháp luật tố tụng thời gian đó không có qui định cụ thể về việc người khởi kiện phải nộp tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm là những tài liệu, chứng cứ nào nhưng qua những vụ việc cụ thể, người khởi kiện và Thẩm phán có thể nhận biết được hệ thống các tài, liệu chứng cứ gồm những gì thông qua yêu cầu của người khởi kiện mà họ có tranh chấp yêu cầu được qui định tại các Điều 26, 28, 30, 32, 34 của BLTTDS. Đồng thời để biết người khởi kiện có quyền khởi kiện được không thì cũng phải căn cứ vào những qui định pháp luật cụ thể gắn liền với yêu cầu của của người khởi kiện. Cần có sự thống nhất với nhận thức của HĐTP TANDTC rằng chỉ trong trường hợp rõ ràng nguyên đơn không có quyền theo pháp luật thì họ mới không có quyền khởi kiện. Nhận thức này đến thời gian đó vẫn phù hợp với nội dung hướng dẫn và ví dụ tại Điều 2 của Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP về người khởi kiện không có quyền khởi kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS. Sau đây một số đề xuất cụ thể:

Đề xuất thứ nhất:

Để qui định của khoản 5 Điều 189 BLTTDS năm 2015 được thực hiện cần qui định bổ sung: Quyền yêu cầu nộp, bổ sung tài liệu chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm khi Toà án nhận và xử lý đơn khởi kiện.

Nội dung bổ sung: “Đối với trường hợp người khởi kiện khi nộp đơn khởi kiện mà không nộp tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm hoặc có nhưng không trọn vẹn thì Thẩm phán có quyền Thông báo yêu cầu người khởi kiện phải nộp bổ sung và ấn định thời gian để thực hiện nhưng không quá ba mươi ngày. Nếu hết thời hạn ấn định mà người khởi kiện không giao nộp mà không có lý do chính đáng thì Toà án căn cứ vào hồ sơ mà người khởi kiện đã nộp để thụ lý vụ án theo thủ tục chung”.

Qui định này có ý nghĩa: Thứ nhất tránh trình trạng người khởi kiện khi nộp đơn khởi kiện mà không nộp tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm hoặc có nhưng không trọn vẹn nhưng Thẩm phán không có quyền Thông báo yêu cầu người khởi kiện phải nộp bổ sung. Thứ hai để thống nhất trong nhận thức của hệ thống Toà án: Trường hợp người khởi kiện khi nộp đơn khởi kiện mà không nộp hoặc nộp không trọn vẹn tài liệu, chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm thì Toà án vẫn phải thụ lý, sau thông báo nếu họ không giao nộp thì hậu quả bất lợi họ sẽ phải gánh chịu, đồng thời đảm bảo Toà án là nơi cầu viện công lý của tất cả mọi người, tránh trình trạng Toà án ấn định buộc người khởi kiện phải giao nộp những chứng cứ, tài liệu lẽ ra nó có thể được giao nộp cho Toà án sau khi thụ lý.

Bên cạnh đó, cần bổ sung thêm biểu mẫu: Thông báo giao nộp, bổ sung tài liệu chứng cứ chứng minh quyền, lợi ích hợp pháp của người khởi kiện bị xâm phạm. Bổ sung biểu mẫu này có ý nghĩa khắc phục trình trạng sử dụng Mẫu số 26-DS về thông báo yêu cầu sửa đổi, bổ sung đơn khởi kiện.

Đề xuất thứ hai:

Ngoài việc hướng dẫn Cơ quan, tổ chức, cá nhân không thuộc một trong các chủ thể quy định tại Điều 186, Điều 187 BLTTDS (khoản 1 Điều 2) và yêu cầu khởi kiện của đơn vị, tổ chức, cá nhân không cần xác minh, thu thập chứng cứ cũng đủ căn cứ kết luận là không có việc quyền và lợi ích hợp pháp của họ bị xâm phạm hoặc cần bảo vệ (khoản 2 Điều 2) thì TANDTC cần có hướng dẫn bổ sung thêm một khoản (khoản 3) vào Điều 2 của Nghị quyết 04/2017/NQ-HĐTP hướng dẫn về người khởi kiện không có quyền khởi kiện quy định tại điểm a khoản 1 Điều 192 BLTTDS.

Nội dung bổ sung: “3. Chỉ trong trường hợp rõ ràng người khởi kiện không có quyền theo pháp luật thì họ mới không có quyền khởi kiện”, và cho một số trường hợp ví dụ cụ thể kèm theo hướng dẫn này.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com