1. Quyền con người là gì?

Quyền con người được hiểu là toàn bộ những quyền của một cá nhân được sinh ra trong xã hội.

Đây là một quyền mang tính chất nhân bản bởi nó là quyền được hình thành ngay sau khi cá nhân đó được sinh ra trong xã hội, nó được sinh ra từ bản chất con người chứ không phảo do pháp luật ban hành hoặc do nhà nước trao cho quyền đó. Trong “Quyền con người”, nhà nước và pháp luật chỉ ghi nhận và bảo vệ quyền đó của con người.

Đây là một quyền tự nhiên của mỗi người, được tạo hóa ban cho con người giống như quyền được sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền cơ bản và tối thiểu của con người mà bất kỳ ai cũng cần được bảo vệ.

Quyền con người không chỉ được công nhận trên góc độ quyền tự nhiên củ một cá nhân mà còn được ghi nhận trên quan điểm pháp lý như sau.

2. Không gian mạng là gì?

Hiện nay, có nhiều quan niệm, cách tiếp cận khác nhau về không gian mạng hay còn gọi là không gian ảo. Đây là môi trường nhân tạo, con người không trực tiếp gặp nhau, nhưng lại có thể trao đổi thông tin, liên lạc với nhau qua một hệ thống mạng, được kết nối toàn cầu – mạng toàn cầu, trên cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước, các vùng, khu vực và toàn cầu. Khoản 3, Điều 1, Luật An ninh mạng năm 2018 của nước ta xác định: “Không gian mạng là mạng lưới kết nối của cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu; là nơi con người thực hiện các hành vi xã hội không bị giới hạn bởi không gian và thời gian”.

Nghiên cứu về không gian mạng và môi trường mạng ở nước ta cho thấy, hai quan niệm này rất gần nhau. Khoản 3, Điều 4, Luật Công nghệ thông tin năm 2006 quan niệm: “Môi trường mạng là môi trường trong đó thông tin được cung cấp, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông qua cơ sở hạ tầng thông tin”. Mà “Cơ sở hạ tầng thông tin là hệ thống trang thiết bị phục vụ cho việc sản xuất, truyền đưa, thu thập, xử lý, lưu trữ và trao đổi thông tin số, bao gồm mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính và cơ sở dữ liệu” (Khoản 4, Điều 4, Luật Công nghệ thông tin).

Như vậy, không gian mạng hay môi trường mạng, cách nói khác nhau, nhưng về bản chất không khác nhau vì đều là không gian ảo, nơi con người có thể liên lạc, kết nối, trao đổi, giao tiếp với nhau. Sự phát triển không gian mạng (môi trường mạng) phụ thuộc vào cơ sở hạ tầng thông tin ở mỗi quốc gia. Hiện nay, ở Việt Nam nói riêng, thế giới nói chung, không gian mạng rất rộng lớn, hệ thống các mạng đang được sử dụng bao gồm: trình duyệt web (Google, Chrome, Mozilla Firefox , Opera, Safari…); trang web tin tức (VnExpress, Tin tức, Zing news, VTC News…); mạng xã hội (Facebook, Twitter, YuMe, Instagram, Zing me, Youtube, Skype, WeChat, Google Plus, Go.vn…); tìm kiếm, tra cứu (Google map, Bing, Google Docs…); tiện ích (chuyển tiền, việc làm, email, thiệp điện tử…); trang mạng mua bán, kinh doanh, học tập, âm nhạc, giải trí.

3. Pháp luật quốc tế về bảo vệ quyền con người trên không gian mạng

Pháp luật quốc tế nhấn mạnh và tuyên bố bảo vệ quyền tự do ngôn luận của con người. Điều 19 Công ước quốc tế về các quyền dân sư, chính trị ghi:

1. Mọi người có quyền giữ quan điểm của mình mà không ai được can thiệp vào.

2. Mọi người có quyền được tự do ngôn luận…thông qua mọi phương tiện đại chúng khác tùy theo sự lựa chọn của họ.

Điều 17 khẳng định:

“1. Không ai bị can thiệp một cách độc đoán hoặc bất hợp pháp đến đời sống riêng tư, gia đình, nhà ở, thư tín, hoặc bị xúc phạm bất hợp pháp đến danh dự và uy tín.

2. Mọi người đều có quyền được pháp luật bảo hộ chống lại những can thiệp hoặc xúc phạm như vậy”.

Bên cạnh đó Điều 20 Công ước quy định:

“ 1. Mọi hình thức tuyên truyền cho chiến tranh đều bị pháp luật nghiêm cấm;

2. Mọi chủ trương gây hằn thù dân tộc, chủng tộc hoặc tôn giáo để kích động sự phân biệt đối xử về chủng tộc, sự thù địch, hoặc bạo lực đều phải bị pháp luật nghiêm cấm”.

Như vậy, theo chuẩn mực quốc tế về quyền con người và pháp luật Việt Nam, quyền tự do ngôn luận hay tiếp cận thông tin không phải là quyền tuyệt đối mà phải chịu những ràng buộc nhất định theo quy định của pháp luật.

Nghị quyết A/RES /68/167 của Đại hội đồng Liên hợp quốc, “Quyền riêng tư trong thời đại kỹ thuật số” năm 2014, yêu cầu tất cả các quốc gia: tôn trọng và bảo vệ quyền riêng tư trong bối cảnh truyền thông kỹ thuật số cần phải hành động để ngăn chặn và chấm dứt vi phạm quyền này bằng cách bảo đảm rằng, pháp luật quốc gia phù hợp với nghĩa vụ quốc tế theo luật nhân quyền quốc tế. Bên cạnh đó, các quốc gia cần có các biện pháp có thể phát hiện việc theo dõi, ngăn chặn, thu thập dữ liệu cá nhân để bảo vệ quyền riêng tư, đồng thời phải bảo đảm tính minh bạch và trách nhiệm giải trình trong trường hợp cần thiết.

Tòa án Nhân quyền Châu Âu bắt buộc Google phải công nhận quyền lãng quên (quyền được xác nhận) để tiếp tục xóa các mục khỏi công cụ tìm kiếm của mình không đáp ứng tiêu chuẩn theo quyền này. Google đã buộc phải giải quyết vấn đề và tìm kiếm câu trả lời đối với thách thức từ công nghệ.

Trước sự phát triển nhanh chóng cùng với mặt trái của không gian mạng, năm 2001, tại Budapest, Hội đồng Châu Âu đã ký Công ước về tội phạm mạng, quy định về sự hợp tác pháp lý giữa các quốc gia để chống lại:

– Vi phạm quyền riêng tư;

– Tội phạm chống lại tính toàn vẹn và khả năng tiếp cận của dữ liệu và hệ thống máy tính; giả mạo và gian lận máy tính;

– Tội phạm sở hữu trí tuệ.

Mỗi năm, Hội đồng Châu Âu, cùng với những người khác trên khắp thế giới kỷ niệm Ngày Internet an toàn vào ngày thứ hai của tuần thứ hai của tháng thứ hai, mà ngày đó năm 2020 rơi vào thứ ba, ngày 11 tháng 2. Vào ngày này, hàng triệu người cùng nhau quảng bá một Internet an toàn hơn và tốt hơn, nơi mọi người đều có thể sử dụng công nghệ một cách có trách nhiệm, thể hiện sự tôn trọng và được phê phán và tiếp cận sáng tạo.

4.Các quy định về quyền con người trên không gian mạng hiện nay

Hiện nay, với dân số là 98,17 triệu người, trong đó có đến 69 triệu người sử dụng internet, tương đương với 70% dân số, Việt Nam đang là nước đứng thứ 16 trên thế giới về số lượng người sử dụng internet3. Chúng ta đang nói đến yêu cầu chuyển đổi số nhằm phát triển nền kinh tế số tại Việt Nam. Thực tế cho thấy, xu hướng số hóa hay công cuộc chuyển đổi số đang xuất hiện ở mọi lĩnh vực từ thương mại, tài chính – ngân hàng cho đến y tế, giáo dục, du lịch, vận chuyển hàng hóa4,… Việt Nam cũng đang phát triển Chính phủ điện tử và hiện đang đứng thứ 86 trong số 193 quốc gia và vùng lãnh thổ về xếp hạng chỉ số phát triển Chính phủ điện tử (EGDI)6. Chúng ta đang phát triển một xã hội số hiện đại mà ở đó mỗi ngày đang có đến hàng triệu giao dịch dân sự của người dân được thực hiện bằng hợp đồng điện tử.

Trong bối cảnh công nghệ đang mở ra tiềm năng phát triển năng suất lao động, phát triển kinh tế – xã hội rất lớn cho đất nước, nhưng nó cũng có nhiều rủi ro, nguy cơ tiềm tàng có thể gây thiệt hại lớn đến người dân và xã hội nếu chúng ta không có sự chuẩn bị kỹ lưỡng về hành lang pháp lý, vì vậy việc hiểu rõ các vấn đề pháp lý trọng yếu về QCN trong xã hội số là một chủ đề rất đáng quan tâm nghiên cứu, để từng bước chuyển hóa thành các quy định cụ thể.

Các quy định về QCN trên môi trường mạng không được nói đến một cách cụ thể trong Hiến pháp năm 2013. Mặc dù Hiến pháp năm 2013 đã mở rộng một số quyền so với quy định trước đây, ví dụ Điều 20 – 21 của Hiến pháp năm 2013 quy định về quyền được bảo vệ đời sống riêng tư, bí mật cá nhân, bí mật gia đình, sức khỏe, thư tín, điện thoại, điện tín và các hình thức trao đổi thông tin riêng tư khác… mở rộng hơn, cụ thể hơn nhiều so với quy định trước đó của Hiến pháp năm 1992 (sửa đổi, bổ sung năm 2001), khi chỉ quy định về quyền bí mật thư tín, điện thoại, điện tín. Bộ luật Dân sự năm 2015 hiện cũng chưa có quy định cụ thể nào về QCN trong xã hội số hoặc liên quan đến mạng internet.

Tuy nhiên, các nội dung về quyền của người dân khi sử dụng, phát triển kinh doanh trên mạng internet đã được quy định tại các luật: Luật Công nghệ thông tin; Luật An toàn thông tin mạng, Luật An ninh mạng, Luật Giao dịch điện tử.

Chẳng hạn, tại Luật Công nghệ thông tin năm 2006 thì tổ chức, cá nhân tham gia hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin có các quyền: tìm kiếm, trao đổi, sử dụng thông tin trên môi trường mạng, trừ thông tin có nội dung không lành mạnh; phân phát các địa chỉ liên lạc có trên môi trường mạng khi có sự đồng ý của chủ sở hữu địa chỉ liên lạc đó; từ chối cung cấp hoặc nhận trên môi trường mạng sản phẩm, dịch vụ trái với quy định của pháp luật và phải chịu trách nhiệm về việc đó; không được cản trở hoạt động hợp pháp hoặc hỗ trợ hoạt động bất hợp pháp về ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin; cản trở bất hợp pháp hoạt động của hệ thống máy chủ tên miền quốc gia; phá hoại cơ sở hạ tầng thông tin, phá hoại thông tin trên môi trường mạng; không được cung cấp, trao đổi, truyền đưa, lưu trữ, sử dụng thông tin số nhằm mục đích chống phá nhà nước, kích động bạo lực, tiết lộ bí mật nhà nước, xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ…

Luật An ninh mạng năm 2018 cũng đưa ra nhiều quy định nghiêm cấm về an ninh mạng như: không được sử dụng không gian mạng để thực hiện hành vi chống phá Nhà nước Việt Nam, xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc, xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; không được thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia,…

Các quy định như trên là chưa đủ, Việt Nam cần tiếp tục cụ thể hóa, luật hóa QCN trên môi trường mạng internet và mạng viễn thông, hay nói cách khác là quyền của con người trên môi trường số.

5. Việc hạn chế quyền của cá nhân, công dân trên không gian mạng

Quyền của công dân trên không gian mạng. Môi trường mạng là không gian rộng lớn, cá nhân, công dân và bất kỳ cơ quan, tổ chức nào cũng đều có thể tự do bày tỏ quan điểm chính kiến, kết nối trao đổi với nhau. Đó là quyền tự do của cá nhân: quyền tự do ngôn luận, tự do thông tin (tự do tìm kiếm, tiếp nhận và trao đổi thông tin) trên môi trường mạng. Đây là quyền tự do cơ bản của công dân được pháp luật quốc tế, Hiến pháp, pháp luật Việt Nam tôn trọng và bảo vệ.

Điều 11, Luật Báo chí năm 2016 quy định quyền tự do ngôn luận trên báo chí (báo giấy, báo hình, báo nói, báo chí điện tử – không gian mạng). Các quyền này của công dân bao gồm: (1). Phát biểu ý kiến về tình hình đất nước và thế giới; (2). Tham gia ý kiến xây dựng và thực hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; (3). Góp ý kiến, phê bình, kiến nghị, khiếu nại, tố cáo trên báo chí đối với các tổ chức của Đảng, cơ quan nhà nước, tổ chức chính trị – xã hội, tổ chức chính trị xã hội – nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội – nghề nghiệp và các tổ chức, cá nhân khác.

Tương tự quyền tự do bày tỏ quan điểm, chính kiến của công dân trên không gian mạng, công dân có quyền tiếp cận thông tin từ chính môi trường mạng. Luật Tiếp cận thông tin quy định, quyền của công dân được cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, kịp thời; khiếu nại, khởi kiện, tố cáo hành vi vi phạm pháp luật về tiếp cận thông tin. Luật An ninh mạng quy định một trong những nguyên tắc bảo vệ an ninh mạng là “bảo đảm quyền con người, quyền công dân, tạo điều kiện cho cơ quan, tổ chức, cá nhân hoạt động trên không gian mạng” (Khoản 3, Điều 4, Luật An ninh mạng).

Như vậy, với hành lang pháp lý hiện nay, cá nhân, công dân có quyền tự do được sử dụng không gian mạng vì lợi ích cá nhân; có quyền được bảo vệ các quyền và tự do của mình từ phía các cơ quan công quyền và chủ động tự thực hiện (thực hành) quyền tự do cá nhân trên không gian mạng.

Nghĩa vụ, trách nhiệm công dân trên không gian mạng. Phù hợp với chuẩn mực quốc tế, mỗi cá nhân, công dân trong khi sử dụng, thực hiện các quyền và tự do của mình thì phải có nghĩa vụ, trách nhiệm đối với cộng đồng, xã hội, đối với quốc gia, dân tộc mà mình đang sống. Nghĩa là khi sử dụng, thực hiện quyền và tự do cá nhân không được làm ảnh hưởng hay xâm phạm an ninh quốc gia; trật tự công cộng, đạo đức xã hội; quyền và tự do của người khác. Vấn đề này theo chuẩn mực quốc tế được gọi là hạn chế quyền con người để bảo đảm vì lợi ích chung của xã hội, vì lợi ích cộng đồng trong một xã hội dân chủ; vì các lý do quốc phòng, an ninh quốc gia, trật tự công cộng, đạo đức xã hội, vì quyền và tự do của người khác.

Cụ thể hóa nguyên tắc hạn chế thực hiện quyền và tự do cá nhân, Luật An ninh mạng và các luật khác có liên quan đã quy định bằng các hành vi bị nghiêm cấm. Trong đó, Luật An ninh mạng quy định 6 nhóm hành vi bị nghiêm cấm (Điều 8) bao gồm:

Thứ nhất: – Sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, gồm: (1). Đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng có nội dung tuyên truyền chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 và 5 Điều 16 Luật An ninh mạng) và hành vi gián điệp mạng; xâm phạm bí mật nhà nước, bí mật công tác, bí mật kinh doanh, bí mật cá nhân, bí mật gia đình và đời sống riêng tư trên không gian mạng (quy định tại khoản 1, Điều 17 Luật An ninh mạng); (2). Chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet; vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; (3). Giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán; (4). Tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật; (5). Hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật; (6). Hành vi khác sử dụng không gian mạng, công nghệ thông tin, phương tiện điện tử để vi phạm pháp luật về an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội;

– Tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam;

– Xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc;

– Thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế – xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác;

– Hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng;

– Xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội.

Thứ hai: Thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng; gây sự cố, tấn công, xâm nhập, chiếm quyền điều khiển, làm sai lệch, gián đoạn, ngưng trệ, tê liệt hoặc phá hoại hệ thống thông tin quan trọng về an ninh quốc gia.

Thứ ba: Sản xuất, đưa vào sử dụng công cụ, phương tiện, phần mềm hoặc có hành vi cản trở, gây rối loạn hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; phát tán chương trình tin học gây hại cho hoạt động của mạng viễn thông, mạng internet, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, phương tiện điện tử; xâm nhập trái phép vào mạng viễn thông, mạng máy tính, hệ thống thông tin, hệ thống xử lý và điều khiển thông tin, cơ sở dữ liệu, phương tiện điện tử của người khác.

Thứ tư: Chống lại hoặc cản trở hoạt động của lực lượng bảo vệ an ninh mạng; tấn công, vô hiệu hóa trái pháp luật làm mất tác dụng biện pháp bảo vệ an ninh mạng.

Thứ năm: Lợi dụng hoặc lạm dụng hoạt động bảo vệ an ninh mạng để xâm phạm chủ quyền, lợi ích, an ninh quốc gia, trật tự, an toàn xã hội, quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân hoặc để trục lợi.

Thứ sáu: Hành vi khác vi phạm quy định của Luật này.