1. Pháp luật quốc tế về quyền trẻ em
1.1. Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em năm 1924.
Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên về quyền trẻ em. Năm 1924 Hội quốc liên đã chấp thuận thông qua Tuyên ngôn Giơnevơ về quyền trẻ em do Hiệp hội quốc tế về quỹ cứu trợ trẻ em soạn thảo trên cơ sở Hiến chương về quyền trẻ em năm 1923. Tuyên ngôn xác định: Loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất và đề ra 5 điểm về các quyền của trẻ em:
a) Trẻ em phải được tạo điều kiện để phát triển bình thường về thể chất và tinh thần;
b) Trẻ em đói phải được ăn; ốm đau phải được chữa bệnh; chậm phát triển phải được nâng đỡ; trẻ em hư phải được dìu dắt; mồ côi và không người thừa nhận, phải được thu nhận, cưu mang;
c) Trẻ em phải được ưu tiên cứu giúp khi xảy ra hoạn nạn;
d) Trẻ em phải được tạo khả năng để có công ăn việc làm và phải được bảo vệ chống mọi cách thức bóc lột;
đ) Trẻ em phải được nuôi dạy với tinh thần được phát huy những năng lực tốt nhất nhằm phục vụ loài người.
Đây là văn kiện quốc tế đầu tiên về quyền trẻ em nên còn những hạn chế về phạm vi, nội dung và tính chất. Các quyền trẻ em quy định trong Tuyên ngôn chủ yếu nhằm vào trẻ em của những nước phát triển, phủ nhận quyền sống của các dân tộc thuộc địa bị áp bức, bóc lột.
1.2. Tuyên ngôn về quyền trẻ em được Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1959.
Tuyên ngôn về quyền trẻ em do Liên hợp quốc thông qua ngày 20/11/1959 đã đưa ra những nguyên tắc tiến bộ hơn với phương châm loài người phải dành cho trẻ em những gì tốt đẹp nhất mà mình có; các quyền trẻ em được mở rộng hơn, cụ thể trẻ em có quyền:
1. Được thương yêu, hiểu biết;
2. Được nuôi nấng, chữa bệnh thích đáng;
3. Học tập không mất tiền;
4. Vui chơi, giải trí;
5. Có họ tên, có quốc tịch;
6. Chăm sóc đặc biệt nếu có những nhược điểm về thể chất, tinh thần;
7. Ưu tiên cứu giúp khi xảy ra hoạn nạn;
8. Đào tạo để trở thành người có ích cho xã hôi;
9. Được phát triển năng khiếu;
10. Nuôi dạy trong tinh thần hoà bình và hữu nghị quốc tế;
Trẻ em được hưởng các quyền trên đây không phân biệt mầu da, giới tính, tín ngưỡng, quốc tịch hay nguồn gốc xã hội.
Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 chỉ mang tính chất khuyến nghị nên chỉ có giá trị về mặt chính trị và đạo đức, không có giá trị pháp lý bắt buộc.
1.3. Công ước về quyền trẻ em năm 1989 (Liên hợp quốc thông qua 20/11/1989, có hiệu lực từ 2/9/1990.
Năm 1978 Liên hợp quốc thông qua Nghị quyết về việc soạn thảo Công ước về quyền trẻ em trên cơ sở Tuyên ngôn về quyền trẻ em năm 1959 và hai Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội và dân sự, chính trị. Năm 1979, Tổ công tác của Liên hợp quốc gồm uỷ quyền của 43 nước thành viên Uỷ ban về quyền con người, một số tổ chức chuyên môn của Liên hợp quốc như Quỹ nhi đồng LHQ (UNICEF), Tổ chức Lao động quốc tế (ILO), Cao uỷ tị nạn LHQ (UNHCR) và 50 tổ chức phi chính phủ… tham gia trực tiếp soạn thảo Công ước.
Sau 10 năm soạn thảo với nhiều lần chỉnh lý có sự đóng góp ý kiến của các nước và các tổ chức quốc tế, Dự thảo Công ước quốc tế về quyền trẻ em đã được Uỷ ban về quyền con người và Hội đồng kinh tế – xã hội của Liên hợp quốc phê duyệt. Ngày 20 tháng 11 năm 1989, Đại hội đồng LHQ đã chính thức thông qua Công ước và ngày 26/01/1990 mở cho các nước ký nhân kỷ niệm lần thứ 30 Tuyên ngôn về quyền trẻ em (1959 – 1989) và lần thứ 10 năm quốc tế thiếu nhi (1979 – 1989). Việt nam là nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước. Hiện nay, Công ước có 191 quốc gia thành viên.
Công ước về quyền trẻ em năm 1989 là Công ước đầu tiên đề cập toàn diện các quyền của trẻ em theo hướng tiến bộ, thừa nhận mọi trẻ em đều có quyền được sống, được phát triển, được tham gia và được chăm sóc, bảo vệ và giúp đỡ đặc biệt. Công ước là văn bản có tính chất ràng buộc pháp lý đối với các quốc gia thành viên trong việc bảo vệ và thực hiện quyền trẻ em trên toàn thế giới.
Mặt khác, còn có một số Công ước, văn kiện quốc tế khác có đề cập đến từng lĩnh vực bảo vệ quyền trẻ em như:
– Công ước về trấn áp buôn bán người và bóc lột mại dâm (Liên hợp quốc thông qua 21/3/1950 và có hiệu lực từ 25/7/1951).
– Quy tắc tối thiểu của Liên hợp quốc về việc áp dụng pháp luật đối với người chưa thành niên do Đại hội đồng LHQ thông qua ngày 29/11/1985 (sau đây gọi tắt là Quy tắc Bắc Kinh)
– Công ước La hay về bảo vệ trẻ em và hợp tác giữa các nước về con nuôi nước ngoài có hiệu lực từ 01/5/1995.
– Nghị định thư không bắt buộc bổ sung cho Công ước về quyền trẻ em, buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em (Liên hợp quốc thông qua 25/5/2000. Việt Nam phê chuẩn ngày 20/12/2001).
– Công ước 182 về cấm và hành động ngay lập tức để xóa bỏ các cách thức lao động trẻ em tồi tệ nhất (Tổ chức lao động quốc tế ILO thông qua 17/6/1999)
– Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia (Liên hợp quốc thông qua ngày 15/11/2000. Việt nam đã ký Công ước này ngày 13/12/2000) và Nghị định thư bổ sung cho Công ước về chống tội phạm có tổ chức xuyên quốc gia về phòng ngừa, trấn áp và trừng trị việc buôn bán người, đặc biệt là phụ nữ, trẻ em (Liên hợp quốc thông qua ngày 15/11/2000).
– Công ước về xóa bỏ mọi cách thức phân biệt, đối xử đối với phụ nữ (Liên hợp quốc thông qua ngày 18/2/1979, có hiệu lực từ 3/9/1981).
2. Các nguyên tắc quốc tề về quyền trẻ em.
2.1. Trẻ em là những người dưới 18 tuổi;
Theo Công ước quốc tế về quyền trẻ em thì trẻ em là những người dưới 18 tuổi, trừ khi luật pháp quốc gia công nhận tuổi thành niên sớm hơn (Điều 1). Phù hợp với nguyên tắc này, Luật Bảo vệ, chăm sóc và giáo dục Việt Nam quy định trẻ em là công dân Việt Nam dưới 16 tuổi.
2.2. Tất cả các quyền đều áp dụng cho tất cả trẻ em, không phân biệt đối xử;
Tất cả các quyền đều áp dụng cho tất cả trẻ em, không có ngoại lệ. Nhà nước có nghĩa vụ bảo vệ trẻ em chống lại bất kỳ cách thức phân biệt, đối xử nào và có những biện pháp tích cực để đẩy mạnh quyền trẻ em. “Các quốc gia thành viên phải tôn trọng và bảo đảm những quyền của trẻ em mà không có bất cứ một sự phân biệt đối xử nào, bất kể trẻ em, cha mẹ hay người giám hộ pháp lý của trẻ em đó thuộc chủng tộc, màu da, giới tính, ngôn ngữ, tôn giáo, nguồn gốc quốc gia, dân tộc hay xã hội, tài sản, khuyết tật, xuất thân gia đình và những mối tương quan khác” (Điều 2)
2.3. Mọi hoạt động có liên quan đến trẻ em đều vì lợi ích tốt nhất của trẻ em.
Tất cả các hành động của đơn vị lập pháp, hành pháp, tư pháp, tổ chức, cá nhân có liên quan đến trẻ em cần tính đến trọn vẹn lợi ích tốt nhất của trẻ em. Nhà nước phải đem lại cho trẻ em sự chăm sóc trọn vẹn trong trường hợp cha mẹ hoặc những người khác có trách nhiệm không làm được việc ấy (Điều 3). Các quốc gia thành viên phải thi hành tất cả những biện pháp lập pháp, hành pháp chính thích hợp để thực hiện những quyền của trẻ em được thừa nhận trong Công ước (Điều 4).
3. Một số quyền cơ bản của trẻ em theo hướng dẫn của pháp luật quốc tế
Trong Bộ luật Nhân quyền quốc tế, quyền trẻ em được chế định chủ yếu trong Công ước về quyền trẻ em (CRC, năm 1989) và hai nghị định thư không bắt buộc bổ sung CRC được thông qua năm 2000 (Nghị định thư về buôn bán trẻ em, mại dâm trẻ em và văn hóa phẩm khiêu dâm trẻ em và Nghị định thư về sự tham gia của trẻ em trong xung đột vũ trang). Trong đó khái niệm “trẻ em” được xác định là những người dưới 18 tuổi. Tuy nhiên, đây là một điều luật mở cho các quốc gia thành viên. Theo đó, các quốc gia thành viên có thể quy định các quyền trẻ em được bắt đầu ngay khi mang thai hay sau khi ra đời; về độ tuổi được coi là trẻ em thấp hơn 18 tuổi so với quy định của CRC.
Quyền trẻ em được quy định dưới 04 dạng, trong đó 02 dạng đầu là quyền trực tiếp; hai dạng sau, tạm gọi là quyền gián tiếp hay quyền thụ động:
– Quyền được sống và phát triển, có họ tên và quốc tịch,…
– Tự do (hay quyền cơ bản) tiếp nhận thông tin, tư tưởng, tín ngưỡng, tôn giáo,…
– Trách nhiệm của cha mẹ và xã hội: Thực hiện các quyền trẻ em, có quyền và nghĩa vụ định hướng và đưa ra những chỉ dẫn phù hợp,…
– Bảo vệ của cha mẹ và xã hội khỏi sự bóc lột và lạm dụng tình dục, khỏi bị mua bán và bắt cóc, khỏi bị tra tấn và tước đoạt tự do, khỏi ảnh hưởng của xung đột vũ trang,…
Nội dung quyền trẻ em trong CRC được phân thành 04 nhóm: (i) Nhóm quyền được sống hay được tồn tại (các Điều 5, 6, 24, 26, 27); (ii) Nhóm quyền được bảo vệ (các Điều 2, 7, 8, 9, 10, 11, 16, 19, 20, 21, 22, 23, 25, 32, 33, 34, 35, 36, 37, 38, 39, 40); (iii) Nhóm quyền được phát triển (các Điều 17, 18, 28, 29, 31, 32); (iv) Nhóm quyền được tham gia (các Điều 12, 13, 14, 15, 17, 30).
4. Một số quyền cơ bản của trẻ em được quy định theo pháp luật Việt Nam hiện hành
Việt Nam là nước đầu tiên ở châu Á và nước thứ hai trên thế giới phê chuẩn Công ước của Liên Hiệp quốc về quyền trẻ em vào ngày 20/02/1990. Ở Việt Nam, quyền trẻ em đã được hiến định từ Hiến pháp năm 1946 (trực tiếp là các Điều 14, 15 và được hàm chứa trong một số điều khác) và trong tất cả các bản Hiến pháp năm 1959, năm 1980, năm 1992 (gồm cả lần sửa đổi, bổ sung vào năm 2001) và năm 2013. Trong Hiến pháp năm 1992, quyền trẻ em được chế định trực tiếp trong Điều 40 và được hàm chứa trong một số điều khác (Điều 50…) và trong Hiến pháp năm 2013, quyền trẻ em được quy định trực tiếp tại khoản 1 Điều 37, cụ thể: “Trẻ em được Nhà nước, gia đình và xã hội bảo vệ, chăm sóc và giáo dục; được tham gia vào các vấn đề về trẻ em. Nghiêm cấm xâm hại, hành hạ, ngược đãi, bỏ mặc, lạm dụng, bóc lột sức lao động và những hành vi khác vi phạm quyền trẻ em”. Quyền trẻ em cũng được quy định trong nhiều bộ luật và luật, mà tập trung là Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 và Luật Trẻ em năm 2016; Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009. Một số quyền cơ bản của trẻ em, cụ thể:
– Quyền sống: Theo CRC thì quyền sống là quyền đầu tiên trẻ em được hưởng và phải bảo vệ. Với ý nghĩa đó, Việt Nam đã kế thừa và quy định chặt chẽ việc bảo vệ quyền sống của con người nói chung và quyền sống của trẻ em nói riêng. Nội dung này được quy định trong Điều 19 Hiến pháp năm 2013: “Mọi người có quyền sống. Tính mạng con người được pháp luật bảo hộ. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật” và Điều 12 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền được bảo vệ tính mạng, được bảo đảm tốt nhất các điều kiện sống và phát triển”. Mặt khác, nội dung của quyền này còn được ghi nhận tại khoản 1 Điều 33 Bộ luật Dân sự năm 2015: “Cá nhân có quyền sống, quyền bất khả xâm phạm về tính mạng, thân thể, quyền được pháp luật bảo hộ về sức khỏe. Không ai bị tước đoạt tính mạng trái luật”.
– Quyền được khai sinh: Đây là một trong những quyền dân sự cơ bản, cần thiết của con người có từ khi sinh ra, để được công nhận là một thành viên của xã hội và là công dân của một Nhà nước. Nội dung của quyền này được quy định tại khoản 1 Điều 7 CRC, Điều 13 Luật Trẻ em năm 2016 và khoản 1 Điều 26 Bộ luật Dân sự năm 2015. Theo đó, mọi trẻ em khi sinh ra đều có quyền được khai sinh. Giấy khai sinh là giấy tờ hộ tịch gốc của mỗi cá nhân và là căn cứ khẳng định trẻ em sinh ra là một công dân của quốc gia đó. Về mặt pháp lý, đây là cơ sở, tiền đề bắt buộc để từ đó cá nhân được hưởng và đòi hỏi được hưởng các quyền con người, quyền công dân của mình.
– Quyền có quốc tịch: Luật Quốc tịch năm 2008 sửa đổi, bổ sung năm 2014 quy định: “Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, mỗi cá nhân đều có quyền có quốc tịch”, điều này có nghĩa là mọi trẻ em sinh ra trên lãnh thổ Việt Nam đều có quyền có quốc tịch. Theo quy định, quốc tịch của trẻ em chủ yếu phụ thuộc vào quốc tịch của cha mẹ. Căn cứ: Điều 15, Điều 16 và Điều 17 Luật Quốc tịch năm 2008 nêu rõ những trường hợp trẻ em được xác định là có quốc tịch Việt Nam[12].
– Quyền được chăm sóc sức khỏe: Điều 14 Luật Trẻ em năm 2016 quy định “Trẻ em có quyền được chăm sóc tốt nhất về sức khỏe, được ưu tiên tiếp cận, sử dụng dịch vụ phòng bệnh và khám bệnh, chữa bệnh” và Điều 84 Luật Trẻ em năm 2016 cũng quy định rất rõ vai trò, trách nhiệm của Bộ Y tế trong việc bảo đảm trẻ em được tiếp cận các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng và công bằng tại các cơ sở khám bệnh, chữa bệnh. Điều 43 Luật Trẻ em năm 2016 quy định về trách nhiệm của Nhà nước trong việc ban hành, thực hiện các chính sách về bảo đảm chăm sóc sức khỏe trẻ em, bao gồm việc tư vấn, bảo vệ, chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ mang thai, các chính sách giảm tỷ lệ tử vong ở trẻ em, chính sách về tiêm chủng, bảo đảm an toàn thực phẩm, chính sách bảo hiểm y tế… Luật Khám bệnh, chữa bệnh năm 2009 xác định trẻ em dưới 06 tuổi được ưu tiên khám bệnh, chữa bệnh là một nguyên tắc trong hành nghề khám bệnh, chữa bệnh (Điều 3) và chính sách của Nhà nước là quan tâm dành ngân sách cho việc chăm sóc sức khỏe đối với trẻ em (Điều 4). Điều này thể hiện sự quan tâm của Nhà nước ta đối với vấn để bảo đảm chăm sóc sức khỏe của trẻ em.
– Quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng: Điều 15 Luật Trẻ em năm 2016 khẳng định: “Trẻ em có quyền được chăm sóc, nuôi dưỡng để phát triển toàn diện”. Bên cạnh đó, Điều 42 Luật Trẻ em năm 2016 còn xác định Nhà nước phải có những chính sách, biện pháp nhằm bảo đảm thực hiện việc chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em, đặc biệt là trẻ em có hoàn cảnh đặc biệt. Bên cạnh gia đình, các cơ sở giáo dục cũng có vai trò cần thiết trong việc thực hiện chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em[13]. Thực tế cho thấy, nhà trường có vai trò rất lớn đối với sự phát triển của trẻ em cũng như chăm sóc, nuôi dưỡng trẻ em. Bởi vì, phần lớn thời gian của trẻ trong độ tuổi này được chăm sóc ở các cơ sở giáo dục.
– Quyền được giáo dục, học tập và phát triển năng khiếu: Điều 16 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: Trẻ em có quyền và bình đẳng về cơ hội được giáo dục, học tập để phát triển toàn diện và phát huy tốt nhất tiềm năng của bản thân. Quy định này thể hiện việc Nhà nước trao quyền học tập cho trẻ em và bảo đảm mọi trẻ em được bình đẳng trước các cơ hội hưởng quyền học tập dù hoàn cảnh và điều kiện sống khác nhau. Điều 14 Luật Giáo dục năm năm 2019 quy định: Nhà nước đảm bảo các điều kiện để thực hiện phổ cập giáo dục mầm non cho trẻ em năm tuổi và phổ cập giáo dục trung học cơ sở trong cả nước… Gia đình, người giám hộ có trách nhiệm tạo điều kiện cho các thành viên của gia đình trong độ tuổi quy định được học tập để thực hiện phổ cập giáo dục và hoàn thành giáo dục bắt buộc.
– Quyền vui chơi, giải trí: Nội dung này được quy định tại Điều 17 Luật Trẻ em năm 2016: “Trẻ em có quyền vui chơi, giải trí; được bình đẳng về cơ hội tham gia các hoạt động văn hóa, nghệ thuật, thể dục, thể thao, du lịch phù hợp với độ tuổi”.
– Quyền có tài sản: Điều 20 Luật Trẻ em năm 2016 khẳng định: “Trẻ em có quyền sở hữu, thừa kế và các quyền khác đối với tài sản theo hướng dẫn của pháp luật”. Nhằm cụ thể nội dung Điều 20, Điều 101 Luật này nêu rõ: Cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em và các thành viên trong gia đình có trách nhiệm bảo vệ quyền, lợi ích hợp pháp của trẻ em; uỷ quyền cho trẻ em trong các giao dịch dân sự theo hướng dẫn của pháp luật; chịu trách nhiệm trong trường hợp để trẻ em thực hiện giao dịch dân sự trái pháp luật. Cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em phải giữ gìn, quản lý tài sản của trẻ em và giao lại cho trẻ em theo hướng dẫn của pháp luật. Trường hợp trẻ em gây tổn hại cho người khác thì cha, mẹ, người giám hộ của trẻ em phải bồi thường tổn hại do hành vi của trẻ em đó gây ra theo hướng dẫn của pháp luật.
Mặt khác, Điều 76 Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 còn quy định “Tài sản riêng của con dưới 15 tuổi, con mất năng lực hành vi dân sự do cha mẹ quản lý. Cha mẹ có thể ủy quyền cho người khác quản lý tài sản riêng của con”. Trẻ em không có đủ năng lực quản lý, định đoạt tài sản riêng nên pháp luật quy định trách nhiệm thuộc về cha, mẹ, người giám hộ trong việc quản lý và định đoạt tài sản riêng của trẻ em.
– Quyền được sống chung với cha, mẹ: Điều 22 Luật Trẻ em năm 2016 quy định: “Trẻ em có quyền được sống chung với cha, mẹ; được cả cha, và mẹ bảo vệ, chăm sóc và giáo dục, trừ trường hợp cách ly cha, mẹ theo hướng dẫn của pháp luật hoặc vì lợi ích tốt nhất của trẻ em. Khi phải cách ly cha, mẹ, trẻ em được trợ giúp để duy trì mối liên hệ và tiếp xúc với cha, mẹ, gia đình, trừ trường hợp không vì lợi ích tốt nhất của trẻ em”. Trong một số trường hợp trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ như: Khi cha và mẹ đang bị tạm giữ, tạm giam hoặc đang phải chấp hành hình phạt tù (trừ những trẻ em dưới 36 tháng tuổi vẫn có thể ở chung với cha, mẹ trong tù); khi cha, mẹ bị Tòa án quyết định không cho chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục con; khi cha, mẹ đang hưởng chế độ chăm sóc, nuôi dưỡng tại cơ sở trợ giúp xã hội; khi cha, mẹ đang chấp hành quyết định đưa vào cơ sở giáo dục bắt buộc, cơ sở cai nghiên bắt buộc… Điều này cũng quy định trách nhiệm cụ thể của các chủ thể có liên quan trong việc chăm sóc thay thế trẻ em trong những tình huống kể trên, theo đó, Ủy ban nhân dân các cấp có trách nhiệm tổ chức việc chăm sóc thay thế cho trẻ em phải sống cách ly cha, mẹ.
– Quyền được bảo vệ: Luật Trẻ em năm 2016 quy định về nhóm quyền được bảo vệ của trẻ em. Theo đó, trẻ em được bảo vệ khỏi sự phân biệt đối xử, thoát khỏi sự bóc lột về kinh tế, sự lạm dụng, xâm hại về thể xác và tinh thần, bị lơ là và bỏ rơi, bị đối xử tàn tệ, các em phải được bảo vệ trong tình trạng khẩn cấp, khủng hoảng.
– Quyền được tham gia: Quyền này không được quy định riêng biệt trong CRC nhưng là tiền đề để trẻ em thực hiện các quyền khác của mình. Luật Trẻ em năm 2016 dành riêng 1 chương quy định về quyền tham gia của trẻ em. Theo đó, trẻ em được tham gia vào tất cả những vấn đề liên quan đến trẻ em thông qua các cách thức như: Diễn đàn, hội nghị, hội thảo, tọa đàm, sự kiện; thông qua tổ chức uỷ quyền tiếng nói, nguyện vọng của trẻ em.