Quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập 

Tuyên ngôn độc lập của nước Mỹ năm 1776 và Tuyên ngôn Nhân quyền và Dân quyền năm 1789 được ra đời từ sau cuộc đấu tranh giành độc lập của 13 bang thuộc địa Anh ở Bắc Mỹ và cuộc đại cách mạng tư sản Pháp. Trên cơ sở kế thừa những tư tưởng tiến bộ thời kỳ Khai sáng, hai bản Tuyên ngôn là những lời khẳng định đầy sức thuyết phục về quyền con người, quyền dân tộc, về nguyên tắc “chủ quyền nhân dân” trong cuộc đấu tranh chống lại chế độ phong kiến chuyên chế hướng con người vươn tới các giá trị dân chủ, giá trị nhân văn cao cả về tự do, bình đẳng, bác ái. Trong nội dung trình bày này, Luật LVN Group sẽ gửi tới một số thông tin về quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập. 

Quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập

1. Quyền con người là gì ? 

Quyền con người (Human rights, Droits de L’Homme) là toàn bộ các quyền, tự do và đặc quyền được công nhận dành cho con người do tính chất nhân bản của nó, sinh ra từ bản chất con người chứ không phải được tạo ra bởi pháp luật hiện hành. Đây là những quyền tự nhiên, thiêng liêng và bất khả xâm phạm do đấng tạo hóa ban cho con người như quyền sống, quyền tự do và mưu cầu hạnh phúc, những quyền tối thiểu của con người mà bất kỳ chính phủ nào cũng phải bảo vệ.

Quyền con người không những được nhìn nhận trên quan điểm các quyền tự nhiên (natural rights) mà nó còn được nhìn nhận trên quan điểm các quyền pháp lý (legal right). Theo đó:

Quyền con người được hiểu là những đảm bảo pháp lý toàn cầu có tác dụng bảo vệ các cả nhân và các nhóm chống lại những hành động hoặc sự bỏ mặc mà làm tổn hại đến nhân phẩm, những sự được phép và sự tự do cơ bản của con người.

2. Đặc điểm của quyền con người. 

Quyền con người có một số đặc điểm sau:

  • Tính phổ quát, thể hiện ở chỗ quyền con người là quyền bẩm sinh, gắn với bản chất con người, là di sản chung của loài người. Quyền con người mang tính phổ quát vì con người ở đâu trên trái đất này cũng đều là thành viên của cộng đồng nhân loại;
  • Tính đặc thù, thể hiện ở việc quyền con người mang những đặc trưng, bản sắc riêng tuỳ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế – xã hội, truyền thống văn hoá, lịch sử ở từng khu vực, quốc gia, vùng lãnh thổ. Sự thừa nhận tính đặc thù của quyền con người cho phép các quốc gia có quyền đưa ra những quy định pháp luật cụ thể, không trái với các chuẩn mực quốc tế ghi trong các điều ước quốc tế về nhân quyền, như quy định hạn chế đối với một số quyền dân sự, chính trị hoặc mức độ bảo đảm các quyền kinh tế, văn hoá, xã hội;
  • Tính giai cấp, tuy không phải nằm trong nội dung các quyền mà được thể hiện trong việc thực thi quyền con người. Với tư cách là chế định pháp lý, quyền con người gắn liền với nhà nước và pháp luật – là những sự kiện mang tính giai cấp sâu sắc. Quyền con người có thể được phân loại dựa theo chủ thể quyển và nội dung quyền. Theo chủ thể quyển: gồm quyền của cá nhân, quyền của nhóm (như phụ nữ, trẻ em) và quyền quốc gia (quyền của quốc gia, dân tộc thiểu số, quyền phát triển). Quyền của nhóm là quyền cá nhân được quy định cho một nhóm xã hội dựa trên một số đặc điểm chung nào đó, ví dụ như dễ bị tổn thương hoặc bị thiệt thòi như phụ nữ, trẻ em, người tj nạn, người lao động nhập cư, người bị giam giữ theo thủ tục tố tụng hình sự… Quyền phát triển là quyền của các quốc gia, dân tộc, đồng thời cũng là quyển của cá nhân. Theo nội dung quyển gồm nhóm quyển dân sự, chính trị (quyền bầu cử, ứng cử, tham gia quản lý nhà nước, xã hội; quyền tự do tư tưởng, tự do ngôn luận, tự do tôn giáo…) và nhóm quyền kinh tế, văn hoá, xã hội (quyền sở hữu, quyền công tác, quyền được bảo vệ sức khỏe; quyền học tập, quyền hưởng thụ văn hoá…).

Quyền con người được quy định trong nhiều văn bản pháp luật quốc tế như Hiến chương Liên hợp quốc, Tuyên ngôn thế giới về quyền con người, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị năm 1966, Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, văn hóa, xã hội năm 1966.

Ở nước ta, quyền con người được quy định trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật như Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật hình sự, Bộ tuật tố tụng hình sự, Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, các luật về bầu cử, Luật bảo vệ, chăm sóc, giáo dục trẻ em, Pháp lệnh tín ngưỡng, tôn giáo… Những nguyên tắc chung của pháp luật Việt Nam về bảo vệ quyền con người bao gồm:

  • Nguyên tắc dân tộc tự quyết – nguyên tắc nền tảng, vì một dân tộc không có quyền tự quyết thì không thể nói đến quyền con người của từng cá nhân thành viên của dân tộc đó;
  • Nguyên tắc bình đẳng trước pháp luật và được pháp luật bảo vệ. Điều 52 Hiến pháp năm 1992 quy định “mọi công dân bình đẳng trước pháp luật”. Nguyên tắc này đã được cụ thể hoá trong nhiều văn bản quy phạm pháp luật của Nhà nước như Bộ luật tố tụng hình sự, Bộ luật dân sự, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội…,
  • Nguyên tắc bình đẳng giới – nguyên tác đã được khẳng định trong Hiến pháp và các văn bản quy phạm pháp luật khác như Bộ luật lao động, Luật hôn nhân và gia đình, Luật bầu cử đại biểu Quốc hội..;
  • Nguyên tắc cấm hồi tố trong luật hình sự được quy định trong Bộ luật hình sự năm 1985 và Bộ luật hình sự năm 4999, theo đó sẽ không áp dụng một điều luật hay quy định về một tội danh mới, hình phạt nặng hơn, một tình tiết tăng nặng mới, hoặc hạn chế phạm vi áp dụng các quy định có lợi cho người phạm tội đối với hành vi phạm tội đã thực hiện trước khi điều luật đó có hiệu lực thi hành.

3. Quyền con người trong tuyên ngôn độc lập. 

Trong tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh, giải phóng giai cấp, giải phóng dân tộc và giải phóng con người luôn hòa quyện với nhau và luôn nhất cửa hàng trong toàn bộ cuộc đời và sự nghiệp đấu tranh của Người. Con đường cách mạng mà Người đã chọn, cuộc cách mạng mà Người đã lãnh đạo, những chủ trương, chính sách mà người đề ra, và cả những việc làm rất cụ thể của Người, tất thảy đều nhằm bảo vệ con người. Không phải ngẫu nhiên mà khi mở đầu bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà ngày 2/9/1945, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhắc lại câu mở đầu trong bản Tuyên ngôn Độc lập của nước Mỹ năm 1776 và tiếp theo, Người còn nêu lên một câu nữa trong bản Tuyên ngôn Nhân quyền và dân quyền của cách mạng Pháp năm 1791: “Người ta sinh ra tự do và bình đẳng về quyền lợi và luôn luôn được tự do và bình đẳng về quyền lợi”. 

Chủ tịch Hồ Chí Minh đã sử dụng hai câu kinh điển đó từ hai cuộc cách mạng tư sản của hai cường quốc lớn là Mỹ và Pháp như một chân lý, không ai chối cãi được. Thông qua chân lý đó, Hồ Chủ tịch muốn khẳng định rằng, nhân dân Việt Nam hoàn toàn tán đồng và có chung ý tưởng với nhân loại về quyền bình đẳng, quyền sống và quyền mưu cầu hạnh phúc của con người; và lẽ dĩ nhiên, nhân dân Việt Nam cũng có những quyền đó như nhân dân Mỹ và nhân dân Pháp. Bằng những hành động và việc làm cụ thể của Người trong cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do của dân tộc, có thể khẳng định rằng, Tuyên ngôn Độc lập của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sự phát triển của Bản yêu cầu mà Người đã gửi đến Hội nghị Véc-xây năm 1919, là sự phát triển chương trình hành động của Việt minh mà Người đã viết năm 1941. Đồng thời, đó cũng là sự kết tinh tất cả những quyền lợi cơ bản và nguyện vọng thiết tha nhất của toàn thể dân tộc Việt Nam. 

Theo quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh, quyền con người không thể tách rời quyền của dân tộc “Tất cả các dân tộc trên thế giới, đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do”. Với cách suy luận biện chứng đó, quyền của mỗi con người là lẽ tự nhiên thì quyền của mỗi dân tộc cũng là lẽ tự nhiên. Từ đó, Người kết tội các thế lực đế quốc xâm lược áp bức dân tộc Việt Nam là trái với lẽ tự nhiên, là vi phạm trắng trợn quyền con người mà cách mạng tư sản Mỹ và cách mạng Pháp đã công nhận. Với việc nâng tầm quyền con người thành quyền dân tộc, không chỉ có ý nghĩa đối với dân tộc Việt Nam mà còn có ý nghĩa đối với nhiều dân tộc bị áp bức, bóc lột khác trên thế giới. Đối với nước ta, khẳng định quyền bình đẳng giữa mọi người và mọi dân tộc là lẽ tự nhiên, là chân lý không thể nào phủ nhận được. Logic biện chứng của lập luận đó, về thực chất là Hồ Chủ tịch đã đi đến một điều khẳng định lớn lao hơn: Nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời cũng hoàn toàn hợp với lẽ tự nhiên, không ai có thể phủ nhận được. Thiên tài của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là ở chỗ đó. 

Quyền con người và quyền dân tộc trong tư tưởng Hồ Chí Minh bắt nguồn từ truyền thống dân tộc Việt Nam qua bốn ngàn năm dựng nước và giữ nước, sự gắn bó giữa cá nhân và cộng đồng dân tộc trong đấu tranh chống thiên nhiên khắc nghiệt và chống kẻ thù xâm lược. Người đã từng khẳng định, dân tộc ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Mỗi khi có giặc xâm lăng thì tinh thần đó lại kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, nó lướt qua, nhấn chìm tất cả lũ bán nước và cướp nước. Trong các cuộc đấu tranh chống thiên nhiên, chống giặc cướp nước, mỗi cá nhân luôn hòa quyện với cộng đồng dân tộc, tìm thấy giá trị của mình trong giá trị chung của quê hương, đất nước. Mặt khác, cũng xuất phát từ thực tiễn Tổ quốc đang bị thực dân đô hộ gần một thế kỷ, nên mọi quyền lợi của nhân dân, của dân tộc cũng bị bọn đế quốc vùi dập. Cho nên, giành lại quyền sống, quyền tự do độc lập, quyền làm người từ tay bọn đế quốc là mục tiêu chiến đấu của dân tộc Việt Nam và trên thực tiễn, Người đã lãnh đạo nhân dân ta đứng lên làm cách mạng giành lại độc lập cho dân tộc, lập nên nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Nhà nước công nông đầu tiên ở Đông Nam Châu Á. 

Tuyên ngôn Độc lập của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà do Chủ tịch Hồ Chí Minh trịnh trọng đọc trước toàn thể quốc dân đồng bào ngày 2/9/1945, đã vĩnh viễn xoá bỏ mọi sự ràng buộc bất bình đẳng giữa Việt Nam với Pháp. “Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập và thực sự đã trở thành một nước tự do, độc lập. Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”. 

Giữ vững lời thề độc lập, ngay sau khi cuộc mít tinh kết thúc, ngày 3/9/1945, Chính phủ đã họp đề ra những nhiệm vụ cấp bách: cứu đói, chống đói, xoá bỏ những thứ thuế bất hợp lý do thực dân Pháp áp đặt, ban hành những quyền tự do dân chủ cho nhân dân, chuẩn bị tổng tuyển cử, thực hiện nam nữ bình đẳng, tự do tín ngưỡng, thực hiện nền giáo dục nhân dân … Đó là những việc làm rất cụ thể của Người và Chính phủ đặt ra nhằm thực hiện quyền con người. Đặc biệt, sự ra đời của bản Hiến pháp năm 1946, hiến pháp dân chủ đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, đánh dấu một bước tiến cần thiết về thực hiện dân chủ và quyền con người, quyền công dân trên một đất nước đã hơn 80 năm bị thực dân, phong kiến đô hộ, mọi quyền tự do dân chủ của con người và của dân tộc bị chà đạp. Tiếp theo, đó là hai cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược, kéo dài 30 năm cũng không ngoài mục đích tiếp tục bảo vệ những giá trị về quyền con người và quyền độc lập, tự do cho dân tộc Việt Nam.

4. Thực hiện quyền con người, quyền công dân ở Việt Nam. 

Bản Tuyên ngôn độc lập của Việt Nam không dài, chỉ có 49 câu, với hơn một ngàn chữ, song lại chứa đựng những nội dung vô cùng lớn, ý nghĩa vô cùng sâu sắc. Không chỉ khai sinh một nhà nước Việt Nam mới, đưa dân tộc Việt Nam bước vào kỷ nguyên độc lập, tự do và chủ nghĩa xã hội, Tuyên ngôn độc lập còn là bản tuyên ngôn về nhân quyền, về thắng lợi của nhân dân Việt Nam trong cuộc đấu tranh vì quyền bình đẳng thiêng liêng giữa các dân tộc và mỗi con người dưới sự lãnh đạo của Đảng và lãnh tụ Hồ Chí Minh. Với ý nghĩa đó, quyền dân tộc tự quyết của Việt Nam là chính đáng; quyền con người mà nhân dân Việt Nam được thụ hưởng cũng là chính đáng và đương nhiên quyền công dân của mỗi người dân/công dân Việt Nam được thực thi ở một nước Việt Nam độc lập, tự do cũng là tất yếu.

Tuy nhiên, cũng theo Hồ Chí Minh, độc lập dân tộc là yếu tố khởi đầu/cần thiết để thực thi quyền con người, quyền công dân, song đó không phải là yếu tố duy nhất bảo đảm để 2 quyền này trở thành hiện thực, bởi: “Nếu nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì”. Những giá trị về quyền con người do Hồ Chí Minh trích dẫn, khẳng định trong Tuyên ngôn độc lập là những giá trị bất hủ và đã, đang và sẽ thực hiện trong cộng đồng các dân tộc, trong đó có Việt Nam.

Sau bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945 của Việt Nam, lần đầu tiên, cộng đồng quốc tế biết đến tư tưởng quyền con người hiện đại từ Hiến chương của Liên hợp quốc (ký ngày 26/6/1945 tại San Francisco; có hiệu lực ngày 24/10/1945) và “Tuyên ngôn thế giới về quyền con người” của Đại hội đồng Liên hợp quốc ngày 10/2/1948. Song trong cả 2 văn kiện cần thiết này, khái niệm quyền con người mới chỉ dừng ở các quyền của cá nhân mà chưa tính đến các điều kiện chính trị, xã hội, lịch sử, văn hóa,v.v.. của mỗi dân tộc, trong đó có quyền dân tộc tự quyết. Sau đó, Công ước quốc tế về các quyền dân sự, chính trị (1966); Công ước quốc tế về các quyền kinh tế, xã hội và văn hóa (1966) được coi là bộ luật Quyền con người quốc tế; Tuyên bố Viên và Chương trình hành động của Liên hợp quốc (1993) đã xác định quyền dân tộc tự quyết là một quyền con người – quyền tập thể của quyền con người. Trong đó, Điều 1 của hai công ước trên đã khẳng định: “Tất cả các dân tộc đều có quyền dân tộc tự quyết” và Tuyên bố Viên và Chương trình hành động đã nhấn mạnh: “Việc khước từ quyền dân tộc tự quyết là sự vi phạm nhân quyền”. Vì vậy, rõ ràng, tư tưởng về quyền dân tộc tự quyết – quyền tập thể của quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập 1945 của Việt Nam không chỉ được Hồ Chí Minh phát triển sáng tạo, đứng vững qua thử thách của thời gian mà còn đi trước nhận thức chung của Liên hợp quốc hơn 20 năm.

Đối với cộng đồng các dân tộc, dù quy định theo cách nào thì quyền con người, quyền công dân cũng là một nội dung cần thiết, có tính xuyên suốt trong Hiến pháp của các quốc gia. Bởi thực tiễn, trong lịch sử nhân loại, kể từ khi xã hội có sự phân chia thành giai cấp, có bóc lột và bị bóc lột, có áp bức và bị áp bức thì những tư tưởng về quyền tự do, bình đẳng đã hình thành và theo đó, cùng với sự phát triển của lịch sử, đấu tranh cho tự do của con người, công bằng trong xã hội luôn là mục tiêu, lý tưởng của nhân loại.

Ở Việt Nam, sau Tuyên ngôn độc lập, ngày 3/9/1945, Chủ tịch Chính phủ lâm thời nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa – Hồ Chí Minh đã nêu 6 nhiệm vụ cấp bách phải thực thi; trong đó, có nhiệm vụ xây dựng và ban hành Hiến pháp dân chủ để chế định quyền của nhân dân/công dân Việt Nam. Người đồng thời yêu cầu sớm tổ chức Tổng tuyển cử với chế độ phổ thông đầu phiếu; trong đó, các sắc lệnh về tổ chức Tổng tuyển cử: Sắc lệnh số 14-SL ngày 8/9/1945 quy định sẽ mở cuộc Tổng tuyển cử để bầu Quốc hội, quy định tất cả công dân trai gái đủ 18 tuổi trở lên đều được quyền ứng cử và bầu cử theo luật định không phân biệt giàu nghèo, dân tộc, tôn giáo và giống nòi; Sắc lệnh số 39-SL ngày 26/9/1945 về thành lập Uỷ ban dự thảo thể lệ cuộc Tổng tuyển cử; Sắc lệnh số 51-SL ngày 17/10/1945 quy định thể lệ cuộc Tổng tuyển cử phải thực hiện theo lối phổ thông đầu phiếu, bầu cử trực tiếp và bỏ phiếu kín; Sắc lệnh số 71-SL ngày 2/12/1945 bổ khuyết Điều 11 chương V của Sắc lệnh số 51 nhằm tạo điều kiện thuận lợi hơn cho người ứng cử… được ban hành đã thể hiện rõ sự hiện thực hóa quyền con người, quyền công dân của mỗi người dân/công dân tại nước Việt Nam độc lập.

Theo đó, tất cả công dân Việt Nam đều ngang quyền về mọi phương diện: Chính trị, kinh tế, văn hóa (Điều 6). Công dân Việt Nam đều được bình đẳng trước pháp luật, đều được tham gia chính quyền và công cuộc kiến quốc tùy theo tài năng và đức hạnh của mình (Điều 7). Đàn bà ngang quyền với đàn ông về mọi phương diện (Điều 9). Công dân Việt Nam có quyền: Tự do ngôn luận, tự do xuất bản; tự do tổ chức và hội họp; tự do tín ngưỡng; tự do cư trú đi lại trong nước và nước ngoài (Điều 10). Tư pháp chưa quyết định thì không được bắt bớ và giam cầm người công dân Việt Nam, không ai được xâm phạm một cách trái luật (Điều 11). Quyền tư hữu của công dân Việt Nam được bảo đảm (Điều 13). Chế độ bầu cử là phổ thông đầu phiếu (Điều 17). Tất cả công dân từ 18 tuổi trở lên, không phân biệt trai gái đều có quyền bầu cử trừ những người mất trí và những người mất quyền công dân. Người ứng cử phải là những người có quyền bầu cử (Điều 18). Nhân dân có quyền bãi miễn các đại biểu mà mình đã bầu ra (Điều 20). Người dân có quyền phúc quyết về Hiến pháp và những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia (Điều 21)…

Cùng với thời gian, Hiến pháp của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa cũng có thay đổi và đi liền cùng đó, trong Hiến pháp sửa đổi năm 1959, quyền con người, quyền công dân được chế định trong chương III: Quyền lợi và nghĩa vụ cơ bản của công dân cũng được mở rộng dân so với Hiến pháp 1946 ở một số quyền của công dân như quyền nhà ở, quyền công tác, quyền nghỉ ngơi, quyền học tập và tự do nghiên cứu khoa học, hoạt động văn hoá, quyền khiếu nại tố cáo…

Trong Hiến pháp 1992, chương V: Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân, Điều 50 ghi rõ: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hóa và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật – thừa nhận cả hai khái niệm quyền con người, quyền công dân…

Trong Hiến pháp năm 2013, Quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân từ Chương V trong Hiến pháp năm 1992 đã chuyển về Chương II: Quyền con người, quyền và nghĩa vụ cơ bản của công dân (giống Chương II, Hiến pháp năm 1946). Trong đó, có sự phân biệt giữa quyền con người và quyền công dân. Căn cứ như: Quyền bình đẳng, không bị phân biệt đối xử trước pháp luật (Điều 16). Quyền không bị trục xuất, giao nộp cho nước khác (Khoản 2, Điều 17).

Không bị tra tấn, bạo lực, truy bức, nhục hình hay bất kỳ cách thức đối xử nào khác xâm phạm thân thể, sức khỏe, xúc phạm danh dự, nhân phẩm (Khoản 1, Điều 20). Quyền bảo vệ đời tư (Điều 21). Quyền có nơi ở hợp pháp (Điều 22). Quyền tiếp cận thông tin (Điều 25); quyền tham gia quản lý nhà nước và xã hội (Điều 28). Quyền bình đẳng giới (Điều 26). Quyền biểu quyết khi Nhà nước tổ chức trưng cầu ý dân (Điều 29). Quyền được xét xử công bằng, công khai và không bị coi là có tội cho đến khi được chứng minh theo trình tự luật định và có bản án kết tội của Tòa án (Điều 31). Quyền sở hữu tài sản tư nhân (Điều 32). Quyền bảo đảm an sinh xã hội (Điều 34). Quyền có việc làm (Điều 35). Quyền được sống trong môi trường trong lành (Điều 43)… Các điều này đáp ứng trọn vẹn nhu cầu chính đáng và ngày càng tăng về quyền con người, quyền công dân đã được nêu ra trong Hiến chương Liên hợp quốc và Tuyên ngôn thế giới về quyền con người.

Có thể thấy, quyền con người, quyền công dân, mối quan hệ giữa quyền con người và quyền công dân Hồ Chí Minh đã nêu ra/thể hiện trong Tuyên ngôn độc lập năm 1945 không chỉ được thực thi tại Việt Nam mà còn ngày càng được điều chỉnh, bổ sung, mở rộng, quy định rõ ràng và hoàn thiện hơn trong các bản Hiến pháp; trong chủ trương, chính sách của Đảng và hệ thống pháp luật của Nhà nước. Trong thực tiễn, thể chế hóa Hiến pháp năm 2013 và thực thi các công ước quốc tế về quyền con người mà Việt Nam đã gia nhập, ký kết, Việt Nam đã bổ sung, sửa đổi và ban hành nhiều văn bản luật, pháp lệnh liên quan đến quyền con người, quyền công dân, phù hợp với Hiến pháp năm 2013. Trong đó, phải kể đến Luật đầu tư 2014, Luật doanh nghiệp 2014, Luật trưng cầu dân ý 2015, Luật quy hoạch 2017, Luật hỗ trợ doanh nghiệp nhỏ và vừa 2017, Luật tiếp cận thông tin 2018…

Trên đây là nội dung nội dung trình bày của Luật LVN Group về “Quyền con người trong Tuyên ngôn độc lập”. Bài viết trên là những thông tin cần thiết mà quý bạn đọc có thể áp dụng vào đời sống thực tiễn. Trong thời gian cân nhắc nếu có những vướng mắc hay thông tin nào cần chia sẻ hãy chủ động liên hệ và trao đổi cùng luật sư để được hỗ trợ đưa ra phương án giải quyết cho những vướng mắc pháp lý mà khách hàng đang mắc phải. 

 

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com