Quyền của phụ nữ theo luật quốc tế

Quyền của phụ nữ theo luật quốc tế có ý nghĩa và những vai trò cần thiết trong thực tiễn đời sống. Luật quốc tế trong giai đoạn hiện nay đang là một trong những khối ngành nghề nhận được nhiều sự quan tâm. Vậy Quyền của phụ nữ theo luật quốc tế là gì? Trong phạm vi nội dung trình bày dưới đây của LVN Group sẽ gửi tới đến quý bạn đọc thông tin về luật quốc tế và phạm vi điều chỉnh của luật quốc tế.
Quyền của phụ nữ theo luật quốc tế

1. Quyền của phụ nữ theo luật quốc tế

Vấn đề đấu tranh cho quyền của phụ nữ đã có từ rất lâu (khoảng thế kỷ XVIII) nhưng quyền của phụ nữ chỉ được chính thức đề cập trong luật quốc tế từ khi Liên Hợp Quốc ra đời. Hiến chương Liên Hợp Quốc năm 1945 khẳng định ngay trong lời nói đầu về “…bình đẳng về quyền giữa phụ nữa và đàn ông…” Kể từ đây, quyền của người phụ nữa đã được ghi nhận trong rất nhiều những tuyên ngôn, công ước quốc tế:

Trong đó có thể kể đến “Tuyên ngôn quốc tế về quyền con người” năm 1948 đã xác lập nguyên tắc nền tảng bảo vệ cho quyền phụ nữ tại điều 1 và điều 2 khi khẳng định: “Mọi người sinh ra đều được tự do và bình đẳng về nhân phẩm và các quyền, đều được tạo hoá ban cho lý trí và lương tâm, và cần phải đối xử với nhau bằng tình anh em”.

Tiếp theo Tuyên ngôn này, hàng loạt các tuyên bố khác và điều ước quốc tế đã được Liên Hợp Quốc thông qua nhằm bảo vệ quyền của phụ nữ mà nổi bật công ước CEDAW về xóa bỏ mội cách thức phân biệt đối xử với phụ nữ. Có thể nói CEDAW là văn kiện cần thiết và toàn diện nhất về quyền bình đẳng của phụ nữ. Tinh thần của Công ước được xây dựng trên cơ sở các mục tiêu của Liên hợp quốc nhằm bảo đảm nhân cách, phẩm giá và các quyền cơ bản của con người cũng như quyền bình đẳng giữa phụ nữ và nam giới.

2. Những văn kiện quốc tế cần thiết về quyền con người của phụ nữ

2.1 CEDAW – văn kiện quốc tế cần thiết nhất về quyền con người của phụ nữ

CEDAW là một trong 9 công ước quốc tế cần thiết nhất hiện nay về quyền con người của Liên hợp quốc (core international human rights instruments). Mặc dù vậy, CEDAW không xác lập các quyền con người mới cho phụ nữ, mà thay vào đó, Công ước này đề ra những cách thức, biện pháp nhằm loại trừ sự phân biệt đối xử chống lại phụ nữ trong việc hưởng thụ các quyền con người mà họ đã được thừa nhận trong những điều ước quốc tế trước đó.

Căn cứ, Công ước chỉ ra những lĩnh vực mà có sự phân biệt đối xử nặng nề với phụ nữ như hôn nhân gia đình, quan hệ dân sự, lao động việc làm, đời sống chính trị, giáo dục đào tạo.., đồng thời, xác định những cách thức, biện pháp để xóa bỏ những sự phân biệt đối xử đó.

Theo cách tiếp cận của CEDAW, bình đẳng giới (hay bình đẳng nam nữ) không có nghĩa là đối xử với phụ nữ giống như đối xử với nam giới trong mọi trường hợp (mô hình bình đẳng cách thức), bởi điều này trên thực tiễn chỉ làm tăng thêm sự phụ thuộc của phụ nữ với nam giới, do phụ nữ là nhóm yếu thế hơn nam giới.

CEDAW cũng không áp dụng mô hình bình đẳng giới mang tính chất bảo hộ phụ nữ, mà theo đó, sự bảo vệ phụ nữ được dựa trên sự chấp nhận địa vị phụ thuộc của phụ nữ với đàn ông. Thay vào đó, CEDAW sử dụng mô hình bình đẳng thực chất (hay còn gọi là cách tiếp cận mang tính điều chỉnh). Theo mô hình này, bình đẳng giới không mang ý nghĩa đơn giản là cào bằng sự tham gia, đóng góp của nam giới và phụ nữ trong mọi hoạt động, mà có nghĩa là phụ nữ và nam giới được công nhận vị thế như nhau trong xã hội và cùng có các điều kiện và cơ hội như nhau để phát huy khả năng, tham gia đóng góp và hưởng thụ thành quả phát triển của quốc gia trên mọi lĩnh vực.

2.2 Những văn kiện và cơ chế quốc tế để bảo vệ và thúc đẩy quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương

Thứ nhất, giống như tất cả các mọi người, thành viên của các nhóm dễ bị tổn thương trong xã hội cũng được hưởng các quyền áp dụng chung cho toàn nhân loại mà được ghi nhận trong UHDR, ICCPR và ICESCR, tuy nhiên, do vị thế yếu hơn của họ, các nhóm này rất dễ bị vi phạm các quyền hoặc gặp khó khăn trong việc hưởng thụ các quyền. Thực tế đó làm nảy sinh nhu cầu xây dựng những văn kiện pháp lý quốc tế với những quy định cụ thể và chi tiết hơn để bảo vệ và thúc đẩy quyền của các nhóm này.

Thứ hai, hệ thống các quy phạm và cơ chế quốc tế về quyền con người nói chung về cơ bản là không đủ, thậm chí, đôi khi không phù hợp nếu áp dụng một cách máy móc với các nhóm người dễ bị tổn thương. Đơn cử, quyền về việc làm là một trong các quyền cơ bản của tất cả mọi người, tuy nhiên, nếu không có những quy định cụ thể về việc áp dụng quyền này với những người chưa thành niên thì có thể sẽ dẫn đến bảo trợ cho việc lạm dụng, bóc lột sức lao động của trẻ em. Hoặc trong hệ thống các quyền và tự do cơ bản của con người không có nhiều quyền rất cần thiết cho trẻ em (ví dụ như quyền được chăm sóc, giáo dưỡng, được học tiểu học miễn phí…), cho phụ nữ (ví dụ như các quyền về sức khỏe sinh sản…), cho người khuyết tật (ví dụ như quyền được hỗ trợ về việc đi lại…), người sống chung với HIV (ví dụ như quyền không bị cưỡng bức xét nghiệm và được giữ bí mật về kết quả xét nghiệm HIV…), người tị nạn, người tìm kiếm nơi lánh nạn (ví dụ như quyền không bị đẩy trả lại nước gốc nếu việc đó khiến họ có thể bị tàn sát, ngược đãi…), người thiểu số (ví dụ như quyền được giữ gìn bản sắc văn hóa của cộng đồng họ…), người bản địa (ví dụ như quyền được bảo tồn và hưởng lợi trên đất đai của tổ tiên họ…)… Như đã đề cập ở trên, vấn đề quyền của các nhóm người dễ bị tổn thương cấu thành một bộ phận cần thiết trong luật nhân quyền quốc tế. Hệ thống văn bản quốc tế về vấn đề này hiện có hàng trăm văn kiện không chỉ do Liên hợp quốc mà còn do nhiều tổ chức liên chính phủ quốc tế thành viên của Liên hợp quốc, đặc biệt là UNESCO, ILO… thông qua. Mặc dù vậy, chương này chỉ giới thiệu và phân tích khái quát những quy phạm quốc tế chủ yếu về quyền của một số nhóm người dễ bị tổn thương nhất, bao gồm phụ nữ, trẻ em, người khuyết tật, người sống chung với HIV/AIDS và người thiểu số.

3. Bình đẳng nam nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền con người

Liên quan đến khái niệm bình đẳng nam nữ, Ủy ban về các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa (đơn vị giám sát thực hiện ICESCR), trong Bình luận chung số 16 thông qua tại phiên họp lần thứ 30 năm 2005 của Ủy ban (về quyền bình đẳng của nam và nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền kinh tế, xã hội, văn hóa nêu ở Điều 3 ICESCR)253 đã nhấn mạnh rằng, bình đẳng nam nữ trong việc hưởng thụ tất cả các quyền con người là một nguyên tắc cơ bản được ghi nhận trong tất cả các văn kiện quốc tế về lĩnh vực này. Bản chất của quy định về quyền bình đẳng của phụ nữ trong luật nhân quyền quốc tế là nhằm để bảo đảm không có sự phân biệt đối xử vì lý do giới tính trong việc hưởng thụ tất cả các quyền con người (các đoạn 1 và 3). Cũng theo Ủy ban, khái niệm bình đẳng nam nữ cần được hiểu là bình đẳng thực chất. Nó đòi hỏi sự bình đẳng của phụ nữ được thực hiện không chỉ trong pháp luật (bình đẳng hình th ức) và cả trên thực tiễn, tức là các chính sách, pháp luật phải có tác dụng làm giảm thiểu những thiệt thòi của phụ nữ trên thực tiễn (các đoạn 6 và 7).

4. Pháp luật Việt Nam về quyền của phụ nữ 

4.1 Luật Bình đẳng giới

Bình đẳng giới là việc nam, nữ có vị trí, vai trò ngang nhau trong các lĩnh vực của đời sống xã hội và gia đình, được tạo điều kiện và cơ hội phát huy năng lực của mình cho sự phát triển của cộng đồng, của gia đình và thụ hưởng như nhau về thành quả của sự phát triển đó và không bị phân biệt đối xử về giới. Theo đó, Nhà nước bảo đảm bình đẳng giới trong mọi lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội và gia đình; bảo vệ, hỗ trợ người mẹ khi mang thai, sinh con và nuôi con nhỏ; tạo điều kiện để nam, nữ chia sẻ công việc gia đình; áp dụng những biện pháp thích hợp để xoá bỏ phong tục, tập cửa hàng lạc hậu cản trở thực hiện mục tiêu bình đẳng giới; hỗ trợ hoạt động bình đẳng giới tại vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào dân tộc thiểu số và vùng có điều kiện kinh tế – xã hội đặc biệt khó khăn; hỗ trợ những điều kiện cần thiết để nâng chỉ số phát triển giới đối với các ngành, lĩnh vực và địa phương mà chỉ số phát triển giới thấp hơn mức trung bình của cả nước.

Nỗ lực bảo đảm bình đẳng giới của Việt Nam đã được quốc tế ghi nhận, theo xếp hạng năm 2012 của Liên Hợp Quốc về chỉ số bất bình đẳng giới, Việt Nam xếp thứ 47/187 quốc gia, so với vị trí 58/136 quốc gia năm 2010 (thứ hạng càng gần 0 càng thể hiện sự bình đẳng cao).

4.2 Luật Bảo hiểm xã hội

Theo Luật Bảo hiểm xã hội năm 2006, phụ nữ được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội như: Chế độ ốm đau, thai sản, tai nạn lao động – bệnh nghề nghiệp, hưu trí, tử tuất, thất nghiệp, mất sức lao động… Bên cạnh đó, Luật còn quy định quyền lợi mang tính đặc thù đối với người phụ nữ như: Lao động nữ được hưởng các chế độ khám thai (nghỉ việc có hưởng lương trợ cấp), nghỉ việc hưởng lương trợ cấp sinh đẻ bằng 100% tiền lương, dưỡng sức sau khi sinh nếu sức khỏe yếu. Mặt khác, các đối tượng xã hội là phụ nữ cũng được hưởng trợ giúp vật chất với tư cách đối tượng cứu trợ xã hội.

4.3 Bộ luật Lao động

Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013 dành một chương (Chương X) quy định riêng về lao động nữ. Theo đó, Nhà nước có chính sách bảo đảm quyền công tác bình đẳng của lao động nữ; khuyến khích người sử dụng lao động tạo điều kiện để lao động nữ có việc làm thường xuyên, áp dụng rộng rãi chế độ công tác theo thời gian biểu linh hoạt, công tác không trọn thời gian, giao việc làm tại nhà; có biện pháp tạo việc làm, cải thiện điều kiện lao động, nâng cao trình độ nghề nghiệp, chăm sóc sức khoẻ, tăng cường phúc lợi về vật chất và tinh thần của lao động nữ nhằm giúp lao động nữ phát huy có hiệu quả năng lực nghề nghiệp, kết hợp hài hoà cuộc sống lao động và cuộc sống gia đình. Luật quy định rõ, nghiêm cấm người sử dụng lao động có hành vi phân biệt đối xử với phụ nữ, thực hiện nguyên tắc bình đẳng nam, nữ về tuyển dụng, sử dụng, nâng bậc lương và trả công lao động; lao động nữ được dành thời gian trong thời gian lao động để cho con bú, làm vệ sinh phụ nữ; không được sa thải hoặc đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động đối với lao động nữ vì kết hôn, có thai, nuôi con nhỏ dưới 12 tháng tuổi. Đặc biệt, Bộ luật Lao động sửa đổi năm 2013 quy định tăng thời gian nghỉ thai sản của lao động nữ từ 4 tháng lên thành 6 tháng.

4.4 Luật Hôn nhân và gia đình

Luật Hôn nhân và gia đình khẳng định nguyên tắc vợ, chồng bình đẳng. Nhà nước, xã hội và gia đình có trách nhiệm giúp đỡ các bà mẹ thực hiện tốt chức năng cao quý của người mẹ; vợ chồng có nghĩa vụ cùng nhau chia sẻ, thực hiện các công việc trong gia đình; có nghĩa vụ sống chung với nhau…

4.5 Bộ luật Hình sự

Thể chế hoá các quy định của Hiến pháp về quyền con người Bộ luật Hình sự năm 1999 (sửa đổi, bổ sung năm 2009) đã quy định những tội phạm liên quan đến phụ nữ, các điều luật bảo vệ quyền của phụ nữ: Hành vi phạm tội đối với phụ nữ có thai là tình tiết tăng nặng trách nhiệm hình sự (khoản 1.h Điều 48) và cũng là tình tiết tăng nặng định khung: Giết người mà biết là có thai (khoản 1, điểm b Điều 93), cố ý gây thương tích hoặc gây tổn hại sức khoẻ đối với phụ nữ đang có thai (khoản1.d Điều 104), hành hạ phụ nữ có thai (khoản 2.a Điều 110), tổ chức sử dụng trái phép chất ma tuý đối với phụ nữ mà biết là đang có thai (khoản 2.d Điều 197), cưỡng bức, lôi kéo sử dụng trái phép chất ma tuý đối với phụ nữ mà biết là đang có thai (khoản 2.đ Điều 200). Trong đó, Bộ luật Hình sự cũng thể hiện sự khoan hồng, tính nhân đạo của Đảng và Nhà nước trong việc xử lý tội phạm là nữ giới; có chính sách giảm nhẹ trách nhiệm hình sự: người phạm tội là phụ nữ có thai được quy định là tình tiết giảm nhẹ trách nhiệm hình sự (khoản 1 Điều 46). Chính sách nhân đạo, khoan hồng được thể hiện cả trong việc áp dụng hình phạt và thi hành án: Không áp dụng hình phạt tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc đối với phụ nữ đang nuôi con dưới 36 tháng tuổi khi phạm tội hoặc khi bị xét xử, không thi hành án tử hình đối với phụ nữ có thai hoặc nuôi con dưới 36 tháng tuổi được hoãn cho đến khi con đủ 36 tháng tuổi.

Có thể nói, quyền của phụ nữ Việt Nam trong các bản Hiến pháp và các văn bản pháp luật đều thể hiện rõ 2 yếu tố căn bản đó là “bình đẳng và ưu tiên”. Có những quyền được pháp luật xây dựng bảo đảm quyền bình đẳng giữa nam và nữ trước pháp luật nhằm xoá bỏ sự phân biệt đối xử trong công việc, trong đời sống chính trị, kinh tế và trong đời sống gia đình. Còn quyền ưu tiên (trong việc tuyển dụng, sắp xếp công việc, nghỉ hưu…) có tác dụng tạo điều kiện thuận lợi cho phụ nữ thể hiện khả năng của mình với việc đóng góp ngày càng nhiều cho gia đình, xã hội, đồng thời tránh rủi ro trong nghề nghề nghiệp, trong cuộc sống gia đình và xã hội.

Trên đây là nội dung trình bày về Quyền của phụ nữ theo luật quốc tế mời bạn đọc thêm cân nhắc và nếu có thêm những câu hỏi về nội dung trình bày này hay những vấn đề pháp lý khác về dịch vụ luật sư, tư vấn nhà đất, thành lập doanh nghiệp… hãy liên hệ với LVN Group theo thông tin bên dưới để nhận được sự hỗ trợ nhanh chóng và hiệu quả từ đội ngũ luật sư, chuyên viên pháp lý có nhiều năm kinh nghiệm từ chúng tôi. LVN Group đồng hành pháp lý cùng bạn.

SOẠN HỢP ĐỒNG, ĐƠN, VĂN BẢN THEO YÊU CẦU CHỈ 500.000đ

--- Gọi ngay 1900.0191 ---

(Tư vấn Miễn phí - Hỗ trợ 24/7)

Công ty Luật LVN - Địa chỉ: Số 16B Nguyễn Thái Học, Yết Kiêu, Hà Đông, Hà Nội, Việt Nam

Gmail: luatlvn@gmail.com