1. Thi hành án dân sự là gì?

Thi hành án dân sự (THADS) là giai đoạn thực thi các bản án, quyết định của Tòa án, cơ quan tài phán nhằm khôi phục lại các quyền và lợi ích hợp pháp của các bên liên quan. Sau khi bản án, quyết định được chuyển giao cho cơ quan THADS, cơ quan này tiếp nhận, phân loại và thống kê theo đơn vị “việc THADS” để tổ chức thi hành. Việc THADS gồm việc THADS chủ động và việc THADS theo yêu cầu; tùy vào tính chất khó khăn, phức tạp, giá trị phải thi hành hoặc nhằm mục đích chú trọng nâng cao hiệu quả công tác thu hồi tài sản cho Nhà nước trong các vụ án tham nhũng, kinh tế mà việc THADS còn được phân loại thành việc THADS trọng điểm, việc THADS tham nhũng, kinh tế. Do vậy, công tác kiêm sát thi hành án ngày càng được quan tâm, chú trọng.

2. Kiểm sát việc áp dụng biện pháp cưỡng chế

Chấp hành viên có trách nhiệm ra quyết định và tổ chức thi hành biện pháp cưỡng chế thi hành án. Kiểm sát viên kiểm sát hoạt động này của Chấp hành viên gồm:

+ Kiểm sát việc khấu trừ tài khoản, trừ vào tiền, thu hồi giấy tờ có giá của ng­ười phải thi hành án (Điều 39 Luật THADS).

+ Kiểm sát việc trừ vào thu nhập của ng­ười phải thi hành án (Điều 40 Luật THADS, Điều 20 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP);

+ Kiểm sát việc kê biên tài sản (các Điều 41 Luật THADS, Điều 21 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP);

+ Kiểm sát việc đảm bảo thực hiện quyền khiếu nại, khiếu kiện về tài sản của đương sự khi kê biên tài sản mà có tranh chấp: Khi kê biên tài sản nếu có tranh chấp thì Chấp hành viên vẫn tiến hành kê biên và giải thích cho đương sự về quyền khởi kiện theo thủ tục tố tụng dân sự, hết hạn 3 tháng kể từ ngày kê biên mà không có người khởi kiện thì tài sản bị kê biên được xử lý để thi hành án, nếu cần xác định quyền sở hữu của ng­ười phải thi hành án trong khối tài sản chung mà các bên không thoả thuận được thì ng­ười phải thi hành án hoặc Chấp hành viên có quyền yêu cầu Toà án giải quyết;

+ Kiểm sát về thủ tục kê biên tài sản: Việc kê biên phải có đại diện chính quyền xã, phường, thị trấn và người làm chứng, ng­ười được thi hành án, ng­ười phải thi hành án và người có quyền, nghĩa vụ liên quan được thông báo về thời gian, địa điểm kê biên tài sản. Đối với trường hợp kê biên tài sản phải đăng ký quyền sở hữu, sử dụng, đăng ký giao dịch bảo đảm thì trước khi kê biên Chấp hành viên phải yêu cầu Cơ quan đăng ký quyền sở hữu, sử dụng tài sản cung cấp thông tin về quyền sở hữu, quyền sử dụng tài sản của ng­ười phải thi hành án, yêu cầu Cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo cung cấp thông tin về tài sản dự định kê biên có đang được dùng để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ của ng­ười phải thi hành án đối với người có quyền hay không hoặc tài sản do ng­ười phải thi hành án quản lý, sử dụng có phải là tài sản thuê, mua hay không, sau khi kê biên, Chấp hành viên phải thông báo cho cơ quan đăng ký quyền sở hữu, cơ quan đăng ký giao dịch đảm bảo biết việc đã kê biên;

+ Kiểm sát việc kê biên tài sản không được kê biên được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 42 Luật THADS; Điều 22 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP, tài sản không được kê biên gồm: Lương thực, thuốc men cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình; công cụ lao động, đồ dùng sinh hoạt thông thường cần thiết cho người phải thi hành án và gia đình; đồ dựng thờ cóng thông thường theo tập quán ở địa phương và một số tài sản của cơ quan, tổ chức, quyền sử dụng đất nông nghiệp, lâm nghiệp, nuôi trồng thuỷ sản, làm muối của cá nhân, hộ gia đình theo quy định của Chính phủ.

+ Kiểm sát việc định giá, định giá lại tài sản đã kê biên được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 43 Luật THADS; Điều 23, 24 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP;

+ Kiểm sát việc giao tài sản để thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 44 Luật THADS.

+ Kiểm sát việc bảo quản tài sản kê biên được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 45, 46 Luật THADS, Điều 25 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP;

+ Kiểm sát việc bán tài sản đã kê biên, việc xử lý tài sản kê biên không bán đư­ợc được thực hiện theo đúng quy định tại Điều 47, 48 Luật THADS; Điều 26 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP như: Kiểm sát các phương thức bán tài sản đã kê biên của Chấp hành viên; Kiểm sát việc cho người phải thi hành án nhận lại tài sản; Kiểm sát về thủ tục bán đấu giá tài sản phải theo đúng quy định tại Nghị định số 05/CP ngày 18/1/2005 của Chính phủ về “bán đấu giá tài sản” và hướng dẫntại Thông tư số 03/2005/TT-BTP ngày 4/5/2005 của Bộ Tư pháp.

+ Kiểm sát việc chuyển giao quyền sở hữu tài sản, chuyển quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 49 Luật THADS, nhằm bảo đảm quyền sở hữu về tài sản đối với người mua được tài sản thi hành án, người nhận tài sản để thi hành án.

+ Kiểm sát giải toả việc phong toả, kê biên tài sản được thực hiện theo quy định tại Điều 50 Luật THADS.

+ Kiểm sát việc thanh toán tiền thi hành án;

+ Kiểm sát việc thanh toán tiền thi hành án được thực hiện theo quy định tại Điều 51, 52 Luật THADS; Điều 27 Nghị định số 173/2004/NĐ-CP: Thứ tự thanh toán (khoản 1 Điều 51 Luật THADS): Tiền cấp dưìng, tiền lương, tiền công lao động, trợ cấp thụi việc, trợ cấp mất việc làm, bảo hiểm xã hội; tiền bồi thường thiệt hại về tính mạng, sức khoẻ; án phí, lệ phí Toà án; tiền phạt, tiền tịch thu, tiền truy thu thuế, truy thu tiền thu lợi bất chính; các khoản phải trả khác.

+ Kiểm sát việc cưỡng chế giao vật hoặc giao nhà, buộc làm công việc nhất định hoặc không làm công việc nhất định theo bản án, quyết định của Toà án đươc thực hiện theo quy định tại Điều 53 đến Điều 56 Luật THADS;

+ Kiểm sát việc chuyển quyền sử dụng đất, kiểm sát việc kê biên, đấu gía quyền sử dụng đất được thực hiện theo quy định tại Điều 54 Luật THADS; Nghị định 164/2004 ngày 14/9/2004 về “kê biên, đấu giá quyền sử dụng đất để bảo đảm thi hành án” của Chính Phủ;

3. Kiểm sát việc đưa bản án, quyết định dân sự của Tòa án ra thi hành

– Khi kiểm sát bản án, quyết định dân sự, Viện kiểm sát cần kiểm sát các hoạt động sau của Cơ quan thi hành án nhằm bảo đảm:

+ Việc ra quyết định thi hành án theo đúng quy định tại các điều 7, 30, 35, 36 Luật THADS; Điều 377, 383 BLTTDS;

+ Việc Thủ trư­ởng Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án đúng thẩm quyền quy định tại Điều 35 Luật THADS.

+ Việc Thủ tr­ưởng Cơ quan thi hành án ra quyết định thi hành án trong những tr­ường hợp ra quyết định thi hành án theo đơn yêu cầu của người được thi hành án đúng quy định về quyền yêu cầu tại Điều 7, thời hạn ra quyết định khi có đơn yêu cầu tại khoản 2 Điều 36 Luật THADS.

+ Việc Thủ trư­ởng Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành án phải tuân theo đúng quy định tại Điều 36 Luật THADS. Căn cứ khoản 1 Điều 36 Luật THADS thì Thủ trư­ởng Cơ quan thi hành án chủ động ra quyết định thi hành phần bản án, quyết định sau đây: Hình phạt tiền, truy thu tiền, tài sản thu lợi bất chính, án phí; Trả lại tiền, tài sản cho đương sự; tịch thu sung quỹ nhà nước, tịch thu tiêu huỷ vật chứng, tài sản; thu hồi quyền sử dụng đất và tài sản khác thuộc diện sung quỹ nhà nước; quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời.

+ Căn cứ để ra quyết định thi hành án: Bản án, quyết định dân sự của Tòa án đã có hiệu lực pháp luật hoặc trong trường hợp chưa có hiệu lực pháp luật nhưng được thi hành ngay theo đúng quy định tại Điều 2 Luật THADS, Điều 376 BL TTDS;

+ Nội dung quyết định thi hành án phải đúng nội dung bản án, quyết định của Toà án.

4. Kiểm sát việc uỷ thác thi hành án

– Kiểm sát việc ủy thác thi hành án:

Căn cứ Điều 55 Luật THADS thì:

 + Thủ trư­ởng Cơ quan thi hành án có thẩm quyền uỷ thác cho Cơ quan thi hành án nơi ngư­ời phải thi hành án cư­ trú, làm việc, nơi có tài sản hoặc nơi có trụ sở ra quyết định thi hành án. 

+ Trường hợp người phải thi hành án có tài sản, làm việc, cư trú hoặc có trụ sở ở nhiều địa phương thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự uỷ thác thi hành án từng phần cho cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án để thi hành phần nghĩa vụ của họ. 

+ Trường hợp ủy thác thi hành nghĩa vụ liên quan đến tài sản thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ủy thác đến cơ quan thi hành án dân sự nơi người phải thi hành án có tài sản; nếu không xác định được nơi có tài sản hoặc nơi có tài sản trùng với nơi làm việc, cư trú, có trụ sở của người phải thi hành án thì ủy thác đến nơi làm việc, cư trú hoặc nơi có trụ sở của người đó.

+ Trường hợp thi hành nghĩa vụ liên đới mà người phải thi hành án cư trú hoặc có tài sản ở các địa phương khác nhau thì Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự uỷ thác toàn bộ nghĩa vụ thi hành án đến cơ quan thi hành án dân sự thuộc một trong các địa phương nơi người phải thi hành án có điều kiện thi hành án.

+ Việc ủy thác phải thực hiện trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày xác định có căn cứ ủy thác. Trường hợp cần thiết phải ủy thác việc thi hành quyết định của Tòa án về áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì việc uỷ thác phải thực hiện ngay sau khi có căn cứ uỷ thác.

– Kiểm sát thẩm quyền uỷ thác thi hành án bảo đảm ủy thác thi hành án của Thủ trưởng Cơ quan thi hành án cấp tỉnh, cấp huyện, cấp quân khu quy định tại Điều 56 Luật THADS.

– Kiểm sát về thủ tục ủy thác thi hành án bảo đảm theo đúng quy định tại Điều 57 Luật THADS. Trước khi khi ủy thác, cơ quan thi hành án dân sự phải xử lý xong tài sản tạm giữ, thu giữ, tài sản kê biên tại địa bàn có liên quan đến khoản uỷ thác Trường hợp Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự đã ra quyết định thi hành án nhưng xét thấy cần ủy thác thì phải ra quyết định thu hồi một phần hoặc toàn bộ quyết định thi hành án và ra quyết định ủy thác cho nơi có điều kiện thi hành… Trong thời hạn 05 ngày làm việc, kể từ ngày nhận được quyết định ủy thác, Thủ trưởng cơ quan thi hành án dân sự ra quyết định thi hành án và thông báo bằng văn bản cho cơ quan thi hành án dân sự đã ủy thác về việc nhận được quyết định ủy thác; quyết định uỷ thác phải được gửi cho Toà án đã chuyển giao bản án, quyết định, VKSND cùng cấp, VKSND nơi nhận uỷ thác, người được thi hành án, người phải thi hành án, người có quyền, nghĩa vụ liên quan.

5. Kiểm sát việc xác minh điều kiện thi hành án

– VKSND phải kiểm sát việc thực hiện trách nhiệm xác minh điều kiện thi hành án của Cơ quan thi hành án thông qua kiểm sát việc tổ chức, phân công trách nhiệm cho Chấp hành viên tổ chức, thực hiện bản án, quyết định của Cơ quan thi hành án; việc phân loại án có điều kiện, không có điều kiện, qua việc thường xuyên, định kỳ xác minh điều kiện thi hành án của Chấp hành viên được phân công thụ lý hồ sơ; việc xác định về điều kiện thi hành án (có điều kiện, chưa có điều kiện) theo đúng quy định tại Điều 44 Luật THADS. Người được thi hành án có quyền chứng minh việc người phải thi hành án có tài sản để thi hành án.

– Người phải thi hành án chỉ được coi là chưa có điều kiện thi hành nghĩa vụ về tài sản trong trường hợp sau:

+ Không có thu nhập hoặc thu nhập thấp chỉ đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho nguời phải thi hành án và gia đình; không có tài sản tại thời điểm xác minh hoặc tuy có tài sản nhưng tài sản có giá trị nhỏ không đủ hoặc chỉ đủ để chi phí về thi hành án, tài sản mà theo quy định của pháp luật không được xử lý để thi hành án hoặc tài sản không bán được, tài sản chung chưa được phân chia hoặc vì lý do khách quan khác nên không xử lý được để thi hành án;

+ Người phải thi hành án bị lâm vào hoàn cảnh kinh tế đặc biệt khó khăn kéo dài do thiên tai, hoả hoạn, tai nạn hoặc ốm đau gây ra;

– Căn cứ khoản 2 Điều 44 Luật THADS thì trong thời hạn 10 ngày, kể từ ngày chủ động ra quyết định thi hành án hoặc kể từ ngày nhận được yêu cầu xác minh của người được thi hành án, Chấp hành viên phải tiến hành việc xác minh; trường hợp thi hành quyết định áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời thì phải xác minh ngay. Việc xác minh phải được lập thành biên bản, có xác nhận của tổ trưởng tổ dân phố, Uỷ ban nhân dân, công an cấp xã hoặc cơ quan, tổ chức nơi tiến hành xác minh. Biên bản xác minh phải thể hiện đầy đủ kết quả xác minh.

– Việc xác minh tài sản dự định kê biên của Chấp hành viên phải đảm bảo đúng các quy định tại thông tư 07/TT-BTP ngày 9/10/2007 của Bộ Tư pháp hướng dẫn về thông báo việc kê biên tài sản thi hành án và cung cấp thông tin về tài sản kê biên tại các trung tâm đăng ký giao dịch, tài sản của Cục đăng ký Quốc gia về giao dịch bảo đảm thuộc Bộ Tư pháp.