Trong cuộc đấu tranh chống giặc ngoại xâm nhằm giành hoà bình, độc lập dân tộc, hình ảnh của người chiến sĩ – người lính luôn là những biểu tượng đi sâu vào lòng người với phẩm chất, tư thế cao cả, trang nghiêm và đẹp đẽ. Bởi vậy, đề tài người lính đã xuất hiện trong nhiều tác phẩm văn chương với cảm hứng ca ngợi. Điều này đã được khẳng định rõ ràng qua hai tác phẩm “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ về tiểu đội xe không kính ” của Phạm Tiến Duật. Dưới đây chúng tôi sẽ giới thiệu đến bạn đọc những bài mẫu hay nhất về so sánh hai bài thơ trên.
1. Dàn ý so sánh hình tượng người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính chi tiết nhất:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu 2 tác giả và tác phẩm
Dẫn dắt vào vấn đề so sánh 2 tác phẩm:
Trong văn học Việt Nam hiện đại, hình ảnh người chiến sĩ chắc tay súng bảo vệ Tổ quốc có một vị trí vô cùng quan trọng. Đó không chỉ là hình tượng nghệ thuật nổi bật trong các sáng tác mà là biểu tượng cao đẹp nhất của con người Việt Nam thời đại Hồ Chí Minh. Phần lớn các tác giả đều có mặt ở những điểm nóng của cuộc kháng chiến nhằm nhanh chóng ghi lại được chân thật và sống động thực tế đấu tranh của chiến sĩ ta. Hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ của những năm đánh Pháp và người chiến sĩ Giải phóng quân miền Nam thời kháng Hoa Kỳ đã được thể hiện rất rõ nét với nhiều vẻ đẹp khác nhau. Chúng ta đã thấy được điều ấy trong hai bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “Bài thơ với chiếc ô tô không kính” của Phạm Tiến Duật.
1.2. Thân bài:
Hoàn cảnh sáng tác:
– “Đồng chí” được sáng tác vào khoảng năm 1948, giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.
– “Bài thơ của tiểu đội xe không kính” được sáng tác năm 1969, giai đoạn cuộc kháng chiến chống Hoa Kỳ cứu nước đang xảy ra ác liệt nhất. b. Xuất thân của những người lính:
– Người lính trong bài “Đồng chí” xuất thân là những người nông dân, đến từ các miền quê nghèo khó “nước mặn đồng chua”, “đất cày nên sỏi đá”. Họ là những người lính “không chuyên”, vì tình yêu nước, ghét giặc mà ra trận và cầm súng chiến đấu.
– Người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” là các chàng trai, có sức khoẻ và tri thức. Họ là các người lính được tuyển chọn và huấn luyện với nhiệm vụ chủ yếu là lái xe trên tuyến đường Trường Sơn. Tuy không trực tiếp tham gia chiến đấu song họ cũng đóng góp không nhỏ vào cuộc kháng chiến của dân tộc. c. Tư thế của những người lính: Trong cả hai bài thơ, những người lính luôn hiện lên với tư thế vững vàng, bất khuất.
– Trong bài “Đồng chí” những người lính hiện lên trong tư thế “Súng bên súng đầu chứ bên đâu”. .. “Đứng cạnh bên nhau đợi giặc tới” luôn sẵn sàng phục kích và chiến đấu với quân thù. facebook.com/hocvanlop9
– Trong “Bài thơ của tiểu đội xe không kính”, người lính hiện lên trong tư thế “Vào buồng lái ta ngồi – Nhìn mây nhìn trời nhìn thẳng”. Đó là tư thế bình tĩnh, tự tin, dám nhìn trực diện vào kẻ thù, không hề sợ hãi và không bao giờ tránh né. d. Phẩm chất của mỗi người lính:
– Tâm hồn lãng mạn nhạy cảm, luôn lạc quan, vui vẻ:
+ Người lính trong bài “Đồng chí” ra trận đánh giặc nhưng bao giờ cũng đau đáu bên lòng nỗi nhớ thương da diết quê hương, xứ sở – nơi có “giếng nước gốc đa”, “gian nhà không” cùng hình ảnh những người thân yêu. Hình ảnh “Đầu súng trăng treo” cũng là một hình ảnh lãng mạn tuyệt đẹp thể hiện được tâm hồn lãng mạn, bay bổng và yêu đời của người lính trong bài “Đồng chí”.
+ Vẻ đẹp tâm hồn của người lính trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” được thể hiện bằng nhiều hình ảnh đầy tươi vui, hóm hỉnh: “Nhìn thấy nắng vào xoa mắt cười – Thấy con đường đâm thẳng vào tim”. .. Trên con đường ra tiền tuyến, thiên nhiên lúc nào cũng trở nên thơ mộng và gắn bó, gần gũi với bộ đội, con đường về với miền Nam thân yêu mãi nằm trong tim những người lính.
– Tinh thần kiên cường vượt qua bao khó khăn, gian khổ:
+ Trong bài “Đồng chí”, người lính phải đối diện với sự thiếu thốn, khó khăn của kinh tế, với bệnh sốt rét rừng hiểm nghèo. ..
+ Trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính”, người lính phải đối diện với bao khó khăn, gian khổ khi ngồi sau tay lái của những con xe không kính.
+ Họ đã vượt lên tất cả khó khăn với bản lĩnh và nghị lực phi thường, của sự tin tưởng lạc quan, yêu đời. ..
– Tinh thần đoàn kết thương yêu gắn bó với nhau:
+ Đây là nội dung xuyên suốt bài thơ “Đồng chí”.
+ Hình ảnh “Nhìn nhau qua cửa kính vỡ kia” trong “Bài thơ về tiểu đội xe không kính” cũng đã thể hiện được một cách xúc động tình thương yêu gắn bó với nhau của những người lính mở đường Trường Sơn.
– Tình yêu tổ quốc, lòng căm thù giặc nồng nàn cùng ý chí quyết tâm đánh bại quân thù là nét đẹp đáng ngưỡng mộ nhất của mỗi người lính trong cả hai bài thơ.
1.3. Kết bài:
– Tổng kết lại nội dung nghệ thuật của 2 bài thơ
– Nêu cảm nhận của người viết với ý nghĩa của 2 tác phẩm trên.
2. So sánh hình tượng người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính hay nhất:
Dân tộc Việt Nam đứng lên trong hai cuộc chiến tranh cách mạng oanh liệt chống Pháp và chống Mĩ. Lẽ đương nhiên, ở đất nước hơn ba mươi năm không rời tay súng thì hình ảnh anh bộ đội Cụ Hồ là hình ảnh “con người đẹp nhất” được yêu mến nhất qua thơ ca và là niềm tự hào lớn lao của dân tộc. Cùng với những tập thơ khác như bài thơ “Đồng chí” sáng tác lần đầu năm 1948 khi tác giả Chính Hữu tham gia trong chiến dịch Việt Bắc và bài thơ “Bài thơ trên chiếc lái xe không kính” viết năm 1969 khi tác giả Phạm Tiến Duật đang hoạt động ở tuyến đường Trường Sơn đã thể hiện thành công về hình ảnh người lính. Hình tượng anh bộ đội được kể lại trong hai bài thơ đã lưu giữ trong văn chương Việt Nam hai gương mặt đẹp và đáng thương của người lính qua hai thời kỳ lịch sử.
Bài thơ Đồng chí được nhà thơ Chính Hữu viết năm 1948 và đăng trong tập Đầu súng trăng treo. Hình ảnh người nông dân cầm súng được khắc hoạ trong tập thơ với nét đẹp đơn sơ, giản dị nhưng cũng rất lãng mạn, bay bổng. Là người nông dân quanh năm lam lũ với con trâu, thửa ruộng, nhưng theo lời kêu gọi cứu nước, nhiều anh đã tình nguyện rời quê lên đường chiến đấu. Phần đông không biết chữ, vào quân ngũ mới chỉ học hành qua loa nhưng họ vẫn vô cùng giàu lòng yêu nước. Họ hiểu giản đơn mà vô cùng sâu sắc rằng: chiến đấu để bảo vệ độc lập cho dân tộc cũng là bảo vệ khu vườn, mảnh ruộng và mái ấm gia đình. Quyền sống thực của từng con người đã thôi thúc họ dấn thân.
Cuộc đời chiến sĩ khó khăn, vất vả, vào sống ra chết đã khẳng định phẩm chất tốt đẹp của những người nông dân mang áo lính. Từ phương trời, đất nước, họ gặp nhau, thành đồng đội, đồng chí của nhau. Sinh ra và lớn lên từ những miền quê nghèo, gian khó nên nhiều anh có bản tính thật thà, chân chất của người nông dân. Đi chiến đấu chống xâm lược, các anh còn lại sau lưng luỹ tre, thửa ruộng nhỏ và mái nhà đơn sơ cùng với những người thân.
Ruộng nương anh gửi bạn thân cày,
Gian nhà không mặc kệ gió lung lay.
Cách diễn đạt giản dị và gần gũi của người nông dân khi thể hiện thái độ kiên quyết coi trọng việc nước hơn việc làng. Dứt khoát thế nhưng không thôi nghĩ về quê hương, gia đình, dòng họ. Nỗi nhớ của người chiến sĩ đơn giản và rõ ràng: ruộng nương, giếng nước, cây đa, mái đình. .. gắn chặt với nơi sinh sống là những miền quê nghèo. Trong môi trường này, các anh gắn bó, cùng chia sẻ buồn vui, gian khổ và cái chết với nhau. Còn gì chân thành yêu thương, gắn bó như cái nắm tay của đồng đội tiếp hơi ấm và sức mạnh bên nhau lúc gian nan, hiểm nguy?
Buổi đầu chiến tranh, quân và dân ta đánh giặc gần như với hai bàn tay trắng. Bộ đội có gì ăn đó, có gì mặc nấy chứ không được trang bị nhiều như ngày nay. Đẹp biết bao là tiếng cười lạc quan của người chiến sĩ. Cười giữa giá rét là thái độ xem thường khó khăn, gian khổ hơn là lòng tin vững vàng về ngày mai chiến thắng. Bài thơ kết thúc với một hình ảnh có ý nghĩa biểu trưng vô cùng to lớn:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo.
Đó là hình ảnh giản dị mà vô cùng sinh động của anh Vệ quốc thời kì đầu chiến tranh, đồng thời cũng là sự ca ngợi tình đồng chí thắm thiết giữa những con người đang ngày đêm bảo vệ Đất nước và mang tới cuộc sống bình yên cho dân tộc. Nếu bài thơ Đồng chí là hình ảnh của người lính Cụ Hồ thời kháng chiến chống Pháp thì Bài thơ về chiếc xe không kính là hình ảnh của người lính Giải phóng trong kháng chiến chống Mĩ gian khổ và quyết liệt.
Người chiến sĩ lái xe trên đường Trường Sơn rất gan dạ và có sức chịu đựng gian khổ phi thường nhưng cũng đầy tinh thần lạc quan đấu tranh. Xe lăn bánh cũng có nghĩa là người chiến sĩ lái xe đã tham gia vào trận đánh. Sự sống và cái chết cách nhau chỉ vài tích tắc nhưng họ luôn giữ được phong thái ung dung, bình thản hiếm có.
Đối đầu với máy bay giặc Mĩ, những chiến sĩ lái xe của ta luôn ở thế thụ động. Vậy dựa vào đâu để họ ra mặt trận với phong thái tự tin như thế? Chỗ dựa tinh thần to lớn nhất đó là niềm tin bất diệt vào sự nghiệp cách mạng của miền Nam, là tình cảm tất cả cho miền Nam ruột thịt, là đạo lý “Thà hi sinh tất cả chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ” mà Chủ tịch Hồ Chí Minh đã thay mặt dân tộc ta đúc kết. Họ hiểu rằng chiến trường cùng đồng đội đang thiếu súng đạn, lương thực, thuốc men. .. mới có sức đánh trả kẻ thù những đòn đích đáng. Chủ quyền độc lập, tự do chính đáng của Đất nước, của dân tộc thôi thúc họ hành động.
Ai đã từng một lần đặt chân đến đường Trường Sơn vào thời kỳ chống Mĩ mới thấu hiểu sự gian khổ, nguy hiểm của người lính lái xe. Đường Trường Sơn gập ghềnh hiểm trở. Mùa mưa, mưa như thác lũ. Mùa khô thì xe chạy bụi tung mù trời. Ngày nào trời quang mây tạnh thì bom đạn giặc Mĩ liên tục trút xuống những chiếc xe nối đuôi nhau ra trận. Xe có kính người lái xe đã vất vả, xe không có kính thì còn vất vả hơn!
Đoàn xe chạy gây ra nhiều trận gió bụi mù trời. Xe không kính nên gió lùa mạnh vào cabin làm người lái xe tưởng chừng chỉ còn lại gió và bụi. Gió làm cay mắt, chảy nước mắt mà gọi là gió vào xoa mắt được thì thật là hài hước và dí dỏm. Như những người lái xe ngạo nghễ giữa điều kiện thời tiết khốc liệt của rừng núi Trường Sơn. Không có lớp kính chắn, con người và thiên nhiên trở nên gần gũi hơn bao giờ hết, vì thế sự tác động của ngoại cảnh đến khả năng nhận thức của con người nhân lên bội phần; sao trời ban đêm, cánh chim ban ngày như bay, như sà vào cabin. Xe lao lên phía trên, con đường lùi xuống phía dưới để người lái xe có cảm nhận thấy rõ con đường chạy xuyên vào tim. Câu thơ chứa đựng một ý nghĩa sâu xa: con đường vào chiến trường miền Nam luôn là điểm hẹn của trái tim người lính.
Bao nhiêu vất vả, gian truân đã được nhà thơ Phạm Tiến Duật khắc hoạ qua những hình ảnh chân thật, bình dị nhưng để lại dấu ấn sâu sắc trong lòng người đọc. Gian khổ tận cùng nhưng vinh quang cũng tột bực. Đó là chất lạc quan thư thái của một dân tộc, chất anh hùng thuộc về bản chất con người Việt Nam. Các chiến sĩ lái xe chấp nhận tất cả với thái độ vui vẻ, lạc quan và có một chút bất cần, rất lính. Đoạn cuối của bài thơ rất đẹp. Chất hiện thực trần trụi và lãng mạn ngọt ngào hoà quyện với nhau:
Không có kính, rồi xe không có đèn,
Không có mui xe, thùng xe có xước.
Xe vẫn chạy vì miền Nam phía trước,
Chỉ cần trong xe có một trái tim.
Càng gần chiến thắng, càng nhiều chông gai, đó là quy luật. Mức độ chiến tranh khốc liệt in khắc rõ trên từng chuyến xe vận tải quân sự: không kính, không còi, không đèn và thùng chi chít vết trầy xước của bom giặc. Nhưng xe vẫn chạy vào hướng miền Nam – tiền tuyến lớn đang thôi thúc, giục giã vì trong xe có một trái tim nóng bỏng tình yêu và trách nhiệm công dân đối với vận mệnh của quốc gia, dân tộc. Hình ảnh trái tim trong câu cuối cùng là một hoán dụ nghệ thuật hết sức có ý nghĩa, đã tôn vinh tinh thần những người chiến sĩ lái xe anh hùng và nâng cao giá trị tư tưởng, thẩm mỹ của bài thơ. Tinh thần quả cảm và thái độ bình thản, lạc quan của các chiến sĩ lái xe giữa mưa bom, bão đạn là tiêu biểu cho ý chí quật cường của tuổi trẻ Việt Nam, của dân tộc Việt Nam thời đánh Mĩ.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính là một bài thơ tự sự mang đầy chất trữ tình cách mạng. Nhà thơ đã khắc hoạ hình ảnh các chiến sĩ lái xe với tấm lòng khâm phục và cảm thông vô hạn. Họ là những con người sẵn sàng sống và làm việc trong gian khổ, chấp nhận hi sinh. Ngôn ngữ thơ giản dị, mộc mạc nhưng đầy sức hấp dẫn, hình ảnh sáng tạo sinh động, nhịp thơ nhẹ nhàng, bay bổng. .. Chính các yếu tố ấy làm nên cái hồn, vẻ đẹp của bài thơ. Nhưng điều quý nhất chính là chữ tình, là sự hoá thân của nhà thơ vào nhân vật nhằm tìm kiếm và tạo nên những viên ngọc lấp lánh trong tâm hồn lớp người anh hùng của một dân tộc anh hùng.
Hai bài thơ của hai nhà thơ chiến sĩ được viết trong hai hoàn cảnh, thời gian khác nhau song có cả chất trữ tình và hiện thực và cùng chung mục đích ngợi ca cái đẹp của người chiến sĩ trong chiến tranh giữ nước. Xuyên suốt mỗi bài thơ là chữ tình, là nghĩa vụ thiêng liêng của người chiến sĩ đối với quê hương đất nước. Tự nguyện dấn thân, chấp nhận gian khổ, hi sinh, trước sau giữ vững khí phách anh hùng và quyết tâm chiến đấu. .. đó là những nét đẹp tiêu biểu của hình ảnh người chiến sĩ trong thơ Chính Hữu và Phạm Tiến Duật.
3. So sánh hình tượng người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính ý nghĩa nhất:
Thơ ca bắt nguồn từ cuộc sống. Cũng có lẽ vì vậy mà các bài thơ luôn mang đến sự đồng điệu giữa xúc cảm của người xem, người nghe và tâm hồn lãng mạn của tác giả. Đặc biệt, các bài thơ gắn liền với hình ảnh người lính qua hai thời kỳ kháng chiến p và chống Mĩ thì luôn khiến độc giả thấy yêu cuộc sống chiến đấu anh dũng của dân tộc mình. Tuy nhiên, hình ảnh người lính mỗi thời kỳ đều có nhiều nét tương đồng và khác biệt, vì thế những bài thơ trong từng thời kỳ cũng khắc hoạ hình ảnh hai người lính khác nhau, ví dụ nổi bật là bài thơ “Đồng chí” của Chính Hữu và “bài thơ tiểu đội xe không kính” của Phạm Tiến Duật.
Sự khác biệt đầu tiên của nhà thơ là hoàn cảnh chiến đấu và xuất thân. Những vần thơ của bài “Đồng chí” được Chính Hữu bằng ngòi bút của mình sáng tác ra vào khoảng tháng 5.1948. Đây là những năm tháng đầu tiên giặc Pháp quay lại xâm lược nước việt nam sau cách mạng tháng 8, cho nên cuộc sống hết sức khó khăn gian khổ, nhất là đối với hoàn cảnh thiếu thốn trăm bề ở chiến khu. Hiểu được nỗi đau thương của dân tộc, nhiều người lao động nghèo khổ ở các nẻo đường đất nước đã bỏ lại sau lưng ruộng đồng, “bến nước gốc đa” mà đi theo tiếng gọi thiêng liêng của Tổ quốc
“Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày nên sỏi đá. “
Khác với Chính Hữu, Phạm Tiến Duật – một nhà thơ trẻ của thời kì kháng chiến chống Mĩ cứu nước cho ra đời “Bài thơ gửi tiểu đội xe không kính” vào khoảng tháng 5.1969. Thời gian này là điểm mốc báo hiệu cuộc kháng chiến của quân và dân ta đang trong giai đoạn khốc liệt nhất. Anh phóng quân bước vào chiến trường khi tuổi đời còn rất nhỏ. Họ ra đi khi vai đang căng cánh phượng hồng, lòng vẫn phơi phới tuổi xuân. Các anh hùng “xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước” cũng không màng đến tương lai đang rộng mở chào đón, đôi chân đã phải buộc lại nơi tiền tuyến bởi hai từ “yêu nước”.
Và do hoàn cảnh, xuất thân khác nhau mà dẫn đến lý tưởng chiến đấu và ý thức cách mạng cũng không tránh khỏi khác nhau. Trong bài “đồng chí”, nhận thức về cuộc chiến của người lính rất đơn giản, không phức tạp. Họ chỉ biết chiến đấu để ra khỏi sự cai trị hà khắc của thực dân Pháp, đoạt lấy độc lập và đòi lại quyền làm người mà thôi. Trong tim họ, tình đồng chí anh em là món quà thiêng liêng và vô giá nhất mà họ có được trong cả quãng thời gian dài cầm súng.
“Súng bên súng, đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ.
Đồng chí!”
Ta trong thời chống Mĩ, khái niệm về tinh thần yêu nước và thống nhất nước nhà đã khắc sâu vào tiềm thức những người dân nơi đây. Họ hiểu được điều đó là vì giai đoạn sau này, khi miền Bắc đã bước vào thời kỳ xây dựng CNXH còn miền Nam vẫn phải chịu khó khăn trước cuộc xâm lăng của đế quốc Mĩ. Lại “thống nhất” trở thành mục tiêu ưu tiên số một của dân tộc việt nam. Trong trái tim chảy dòng máu đỏ của người Việt Nam, mỗi người lính Trường Sơn mang trong mình tinh thần thép, ý chí quyết tâm giải phóng miền Nam và tình đồng chí đã có từ thời kháng chiến
“Xe vẫn chạy về miền Nam phía trước:
Chỉ cần trong xe có một trái tim. “
Sẽ thiếu sót nếu như so sánh hai bài thơ mà lại không nói đến cái hay của chúng. “Đồng chí” là biểu tượng của cái đẹp bình dị, gần gũi mà sâu lắng. Tình đồng chí được bộc lộ một cách tự nhiên hoà vào trong tinh thần yêu nước nồng nàn và gắn bó như những người bạn với nhau. Còn “bài thơ về tiểu đội xe không kính” là những phác hoạ tiêu biểu của nét đẹp và tinh thần kiên cường, quả cảm với tinh thần yêu dân yêu nước rực sáng trong tim. Khát vọng cùng niềm tin của tuổi trẻ được gửi gắm vào những cỗ xe không kính, thứ dẫn họ qua dãy Trường Sơn thẳng tiến về miền Nam yêu dấu.
Thế rồi, những người lính khác, dẫu trong thời kỳ nào họ cũng có những mối nhớ không nguôi ngoai nơi quê nhà. Sống giữa mặt trận với tình đồng chí sâu nặng, lòng của người lính đang xốn xang mỗi khi hình ảnh mẹ già, vợ ốm, con nhỏ trở về. họ thấy rất xót xa khi nhớ đến ruộng đồng bỏ hoang không cỏ mọc, gian nhà trống trải càng thêm cô đơn.
“Ruộng nương anh gửi bạn thân cày
Gian nhà không, mặc kệ gió lung lay
Giếng nước gốc đa nhớ người ra lính”
Người lính chống Mĩ thì khác, nỗi nhớ của họ là sự lưu luyến nơi mái trường, là niềm tiếc nuối khi cuốn sách chưa hoàn thành. Họ buồn khi phải gác những mơ ước ấy trên đường đi vào tương lai. Nhưng họ hiểu rằng trách nhiệm với quê hương vẫn còn nguyên, khiến họ quyết chiến đấu đến cùng. Họ biến con đường ra tiền tuyến trở thành mái nhà chung kết nối nhiều trái tim mang tinh thần chống giặc ngoại xâm làm một.
Bàn về nội dung của hai bài thơ, ta không khó để thấy giữa chúng có nét khác biệt khá rõ rệt. Chính Hữu dùng thủ pháp lãng mạn để xây dựng trong thơ của anh hình tượng nên thơ của tình đồng chí: “đầu súng trăng treo”. Cảm hứng dâng trào lên rồi lại lắng trong tâm hồn, hoá thân thành nhân vật của chiến đấu và hoà bình, mang đến cho đời một bài thơ đầy chất trữ tình nhưng cũng không kém phần sâu sắc. Ngược lại, Phạm Tiến Duật xây dựng hình ảnh người lính với những câu chuyện có thật trong cuộc sống chiến đấu gần nhất: “xe không kính”. Hình ảnh thơ này quả thật rất đặc biệt và khiến người xem nhiều lần ngỡ ngàng bởi tính độc đáo cùng nét giản dị nhưng cũng đầy chất thơ của “bài thơ về tiểu đội xe không kính”.
Ây tuy khác nhau về hoàn cảnh, xuất thân cho đến kinh nghiệm chiến đấu, họ đều cùng chung một mục tiêu duy nhất: chiến đấu vì chủ quyền và độc lập, tự do của đất nước. Họ lấy quyết tâm làm nền tảng, tinh thần làm điểm tựa để vững vàng bước đi vào tương lai được xây lên từ tình đồng chí. Dẫu biết rằng trong cuộc chiến một sống một chết ấy, đã có không ít những người phải hi sinh, song đó chính là sức mạnh to lớn hơn chắp cánh cho ước mơ của mỗi người lính vươn rộng, nâng cao. Hình tượng người lính qua hai thời kỳ vẫn chất chứa nhiều phẩm chất tốt đẹp của anh bộ đội cụ Hồ khiến chúng ta luôn phải kính trọng và yêu quý.
Nói tóm lại, người lính luôn là hình ảnh chân thực và gần gũi nhất của cuộc sống, cho dù là thời kì phong kiến hay chống Hoa Kỳ. Họ hiện lên quá đỗi bình dị và gần gũi, với tình đồng đội nồng ấm đã, đang và sẽ mãi nuôi dưỡng trong trái tim. Họ là những gốc xương rồng mạnh mẽ luôn nỗ lực vươn lên giữa thảo nguyên bao la cằn cỗi. Họ là ánh lửa soi sáng con đường của quê hương việt nam, giúp chúng ta đi vào hoà bình và phát triển như ngày hôm nay.
4. So sánh hình tượng người lính trong Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính ấn tượng nhất:
Trải qua ba mươi năm chiến tranh vệ quốc vĩ đại, dân tộc việt nam đã làm nên lịch sử vẻ vang: đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ. Có thể nói, nhân vật trung tâm của thời đại đã làm nên lịch sử, đó là anh bộ đội Cụ Hồ. Hình tượng anh bộ đội Cụ Hồ đã trở thành cảm hứng đẹp trong thơ ca việt nam. Trong số những bài thơ sáng tác về chủ đề chiến tranh phải kể đến Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ với tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật. Hai bài thơ gắn bó với hai giai đoạn chiến tranh chống Pháp và chống Mĩ sẽ giúp chúng ta nhận thức sâu sắc thêm về hình ảnh người lính.
Chính Hữu sinh năm 1926. Năm 1946 ông nhập ngũ và là lính trung đoàn Thủ đô. Đầu năm 1948 bài thơ Đồng chí ra đời khi ông là cán bộ trung đội. Phạm Tiến Duật sinh năm 1941 đến năm 1964 tham gia bộ đội và hoạt động trên tuyến đường Trường sơn. Bài thơ của tiểu đội xe không kính sáng tác năm 1969. Hai nhà thơ thuộc hai thế hệ thi nhân nối tiếp nhau tham gia cuộc kháng chiến của dân tộc. Hai thi phẩm mà chúng ta nhắc tới là hai trong số nhiều sáng tác tiêu biểu của các thời kỳ văn học. Qua sự ca ngợi anh bộ đội Cụ Hồ. Người lính trong hai bài thơ trên là những hình ảnh tiêu biểu của thơ Việt Nam 1945 – 1975 sẽ còn đọng lại trong tâm trí người xem.
Đọc Đồng chí, cảm nhận chung của chúng tôi là hình ảnh người lính việt nam thời kháng chiến chống Pháp xuất phát từ nông dân. Hình ảnh đồng chí được Chính Hữu miêu tả chân thật, bình dị mà cao cả. Khác với phong cách lãng mạn anh hùng có dáng dấp tráng sĩ hào hoa của thơ ca đầu chống Pháp, cảm hứng của Chính Hữu trong Đồng chí hướng đến giá trị thật của đời sống, khám phá vẻ đẹp và chất nhân văn trong cái “đời thực” của cuộc chiến đấu và người chiến sĩ. Cái đẹp trong gian khổ, hy sinh và cả vẻ đẹp của tình đồng chí, đồng đội, thuỷ chung, son sắt:
Quê hương anh nước mặn đồng chua
Làng tôi nghèo đất cày lên sỏi đá
Tôi với anh đôi người xa lạ
Tự phương trời chẳng hẹn quen nhau
Súng bên súng đầu sát bên đầu
Đêm rét chung chăn thành đôi tri kỉ
Đồng chí!
Đoạn kết này có bảy dòng, theo ba cặp và cuối cùng dừng lại ở một từ: Đồng chí. Một sự bày tỏ tình đồng chí của người lính. Đó là bắt nguồn từ sự giống nhau về hoàn cảnh, xuất phát từ tình cảm, là có chung mục tiêu, lý tưởng, trách nhiệm, san sẻ gian lao (Súng bên súng đầu sát bên đầu/Đêm rét chung chăn nên đôi tri kỉ. ..) Một chữ chung biến những người vốn dĩ xa lạ trở thành đôi tri kỉ và cao hơn là đồng chí. Người xưa đánh giá tình bạn cao nhất là tri kỉ. Chính Hữu nhìn ra ở anh bộ đội Cụ Hồ một tình cảm khác sâu đậm hơn và gần gũi hơn – tình đồng chí. Tình cảm này không phải chỉ có sự thấu hiểu sâu sắc suy nghĩ, nỗi niềm của nhau mà còn là cái chung to lớn. Là bao khó khăn, gian khổ của cuộc đời chiến đấu.
Tất cả diễn đạt bằng lời không đầy đủ, bao nhiêu lời yêu thương, ấm áp nhất cũng trở nên vô nghĩa, không truyền tải được sức nặng tình cảm giữa những người lính và người đồng đội. Lạnh đoạn thơ thứ hai có 10 dòng cũng theo các cặp đôi để cuối cùng gom được một hành động thay cho muôn lời: “Yêu nhau tay nắm lấy trái tim”. Tình đồng chí của những người lính trẻ, nói như Chính Hữu:
Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh
Sốt run người vầng trán ướt mồ hôi
Áo anh rách vai
Quần tôi có vài mảnh vá
Miệng cười buốt giá
Chân không giày…
Là tình cảm của cha ông thuở mới khởi nghĩa chống Pháp hồi giữa thế kỉ XIX để lại. Tình của những người phu, dân nông, “Việc cuốc, việc cày, việc cấy, việc gặt tay đã quen rồi – Tập gươm, tập súng, tập roi, tập pháo mắt chưa bao giờ thấy” (Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc – Nguyễn Đình Chiểu) . Những con người đó vốn không đi vào cuộc chiến đấu gian khổ, khó khăn này với đầu óc lạc quan. Nhưng cuộc chiến đấu trên mặt trận bảo vệ Tổ quốc đã khiến họ trở nên hào hùng và bất tử. Bức tượng cuối bài thơ là sự hình thành tất yếu từ tình đồng chí:
Đêm nay rừng hoang sương muối
Đứng cạnh bên nhau chờ giặc tới
Đầu súng trăng treo
Người chiến sĩ trong Bài thơ về tiểu đội xe không kính không mang đặc trưng như đã nói ở trên nhưng vẫn từ bốn phương tụ hội, với đầy đủ sự trong sáng, hồn nhiên, vô tư. Họ là những người chiến sĩ giao thông của các đoàn xe từ trong bom đạn: đã về đây tập hợp thành tiểu đội: Không có kính và xe không có còi, không có nóc xe. .. Bởi vì: “Bom nổ bom làm kính vỡ mất rồi”. Lại phải chịu đựng bao nhiêu khó khăn: gió, bụi, mưa xối xả tới:
Xe vẫn chạy về Miền Nam phía trước
Chỉ cần trong xe có một trái tim
Tình đồng chí, đồng đội trong tập thơ của Phạm Tiến Duật có cái tựa chung là anh em, bạn bè. Tất cả cùng là đồng chí: trẻ, giỏi, dũng cảm trong chiến đấu.
Không có kính không phải vì xe không có kính
Bom giật bom rung kính vỡ đi rồi.
Nhưng:
Ung dung buồng lái ta ngồi
Nhìn đất nhìn trời nhìn thẳng…
Bụi phun tóc trắng… cười ha ha
Mưa tuôn… mau thôi
Gặp bè bạn… kính vỡ rồi
Họ không cần nhiều hiểu biết, không cần phải đồng cảnh ngộ vì với họ từ trong bom rụng. .. kết thành tiểu đội. Nếu hình ảnh người chiến sĩ trong bài Đồng chí là một bức tượng đài: Đứng cạnh bên nhau đợi giặc về/Đầu súng trắng xoá thì người lính trong thơ Phạm Tiến Duật là một tổ hợp của nhiều gương mặt trẻ trung, yêu đời.
Đồng chí của Chính Hữu và Bài thơ với tiểu đội xe không kính của Phạm Tiến Duật là hai tiêu điểm trong những giá trị của hình tượng người lính – Anh bộ đội Cụ Hồ được thơ ca xây dựng nên suốt 30 năm chiến đấu cho đến ngày toàn thắng 1975.
5. So sánh ngắn gọn bài thơ của Tiểu đội xe không kính và bài Đồng chí:
Giống nhau:
Bài thơ của tiểu đội xe không kính và bài Đồng chí cùng viết về những người lính can trường, quả cảm trải qua bao gian khổ nguy hiểm. Họ đều phải vượt qua các cuộc chiến đấu thiếu thốn về vật chất, trong hoàn cảnh vô vùng khó khăn, gian khổ.
Những người lính trong hai bài Đồng chí và Bài thơ về tiểu đội xe không kính là những người lính từng trải qua hai cuộc kháng chiến gian khổ chống Pháp, chống Hoa Kỳ có nhiều điểm chung: lòng yêu nước, tinh thần quả cảm, sẵn sàng xả thân cho độc lập tự do của Tổ Quốc bất chấp khó khăn thiếu thốn, hy sinh, gian khổ.
Khác nhau:
Bài thơ Đồng chí nhấn mạnh đến tinh thần đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau trong điều kiện chiến đấu khó khăn về vật chất. Vẻ đẹp nhất ở mỗi người lính chính là tinh thần đồng đội, đồng chí gắn bó, thân thiết bắt nguồn từ sự thấu hiểu, cảm thông và tinh thần yêu hoà bình để cùng kề vai sát cánh với nhau trong chiến đấu.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính lại nhấn mạnh tới tinh thần lạc quan, kiên cường của những người lính lái trẻ luôn vững vàng trước thử thách và hiểm nguy phía trước.
Bài thơ về tiểu đội xe không kính: khắc hoạ hình ảnh của những đoàn xe không kính qua đó làm nổi bật hình ảnh những người lính lái trên tuyến đường Trường Sơn trong thời kỳ chống Mĩ với tư thế vững vàng, tinh thần dũng cảm, chấp nhận nguy hiểm và ý chí chiến đấu giải phóng miền Nam sục sôi, mãnh liệt. Đó là thế hệ anh hùng, dũng cảm và sức mạnh.