1. Dàn ý Phân tích bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương siêu hay:
1.1. Mở bài:
Giới thiệu tác giả, tác phẩm:
– Hồ Xuân Hương hay còn gọi là “Bà chúa thơ Nôm” là một nữ thi sĩ nổi tiếng của Việt Nam cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
– Một trong những tác phẩm văn học chữ Nôm tiêu biểu của bà là bài thơ “Bánh trôi nước”, sử dụng hình ảnh bánh trôi nước để phản ánh một cách tinh tế thân phận phụ thuộc và giá trị đạo đức cao đẹp của người phụ nữ Việt Nam.
1.2. Thân bài:
– Trong bài thơ, tác giả miêu tả vẻ ngoài đẹp đẽ và tinh khiết của những chiếc bánh chưng, được làm từ bột nếp và nhân đậu đỏ ngọt ngào. Những chiếc bánh được luộc trong nước sôi cho đến khi nổi lên mặt nước, tượng trưng cho vẻ đẹp và sự mong manh của chúng.
– Hồ Xuân Hương cũng so sánh số phận của người phụ nữ Việt Nam với chiếc bánh trôi nước, nhấn mạnh sự thiếu quyền quyết định và sự đấu tranh của họ với áp bức, gian khổ.
– Hơn nữa, nhà thơ ca ngợi phẩm chất đạo đức, cao quý của người phụ nữ Việt Nam qua hình ảnh chiếc bánh chưng. Cô khắc họa vẻ đẹp ngoại hình cũng như vẻ đẹp nội tâm về lòng trung thành và sức mạnh của họ khi đối mặt với nghịch cảnh.
– Bài thơ được viết theo thể thất ngôn tứ tuyệt, một cấu trúc câu thơ truyền thống của Việt Nam bao gồm bốn dòng bảy âm tiết. Nó sử dụng nhiều kỹ thuật văn học khác nhau như ẩn dụ, chơi chữ và mô típ dân gian, và ngôn ngữ của nó đơn giản nhưng sâu sắc với nhiều tầng ý nghĩa.
1.3. Kết bài:
– Nêu cảm nghĩ của em về bài thơ: Tóm lại, “Bánh trôi nước” của Hồ Xuân Hương là một kiệt tác văn học Nôm thể hiện một cách sinh động bản chất của vẻ đẹp, sự đấu tranh và sức mạnh của người phụ nữ Việt Nam, đồng thời thể hiện tài năng thơ ca đặc sắc của tác giả.
2. Phân tích bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương siêu hay:
Dù chúng ta hiện đang sống trong một thế giới được coi là hạnh phúc và bình đẳng về chủng tộc, tầng lớp và dân tộc, tuy nhiên ít ai biết rằng trong xã hội xa xưa, phụ nữ đã phải chịu đựng một quan niệm sai lầm và cổ hữu: “trọng nam khinh nữ”. Trong những hoàn cảnh đó, những người phụ nữ giống như Hồ Xuân Hương đã viết nên tác phẩm “Bánh trôi nước” mang trong mình số phận đầy khổ đau và bất công:
“Thân em vừa trắng lại vừa tròn
Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầ tay kẻ nặn
Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Tác giả Hồ Xuân Hương đã sử dụng một cách tài tình những chiếc bánh trôi nước giản đơn để thể hiện sự chịu đựng và gánh vác của người phụ nữ trong xã hội phong kiến với quan niệm sai trái “trọng nam khinh nữ”. Dù chỉ với những từ ngữ đơn giản, bài thơ vẫn chứa đựng nhiều tình cảm sâu sắc.
Câu thơ “Thân em vừa trắng lại vừa tròn” sử dụng mô típ ca dao quen thuộc để miêu tả sự đẹp của người phụ nữ và biến những chiếc bánh trôi nước thành những đóa hoa xinh đẹp, lộng lẫy, tô điểm thêm màu sắc cho cuộc sống.
Thành ngữ “bảy nổi ba chìm” được tác giả sử dụng để miêu tả số phận lênh đênh chìm nổi của người phụ nữ Việt Nam trong xã hội phong kiến xưa, gợi lên nỗi đau thương và tình cảm thương hại của bà Hồ Xuân Hương đối với những người phụ nữ bị định đoạt số phận.
Điều đáng tiếc là trong xã hội xưa kia, những người phụ nữ nhỏ bé và yếu đuối phải chịu đựng những số phận khổ cực mà không được sống trong một thế giới bình đẳng, hạnh phúc như ngày nay. Quan niệm sai trái “trọng nam khinh nữ” đã làm cho cuộc đời của những người phụ nữ trở nên đen tối và đầy bi thương. Chúng ta cần phải trân trọng và đấu tranh cho sự bình đẳng và sự công bằng cho tất cả mọi người, không phân biệt giới tính, chủng tộc hay tầng lớp dân tộc.
Tác giả sử dụng kỹ thuật đảo ngữ “Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn” để diễn tả tình trạng phụ nữ phải sống lệ thuộc với những quan niệm sai lầm. Tại gia phụ thuộc cha, xuất giá phải cung phụng chồng và khi mất chồng, phụ nữ phải nhờ vả con cái. Nhưng dù vậy, người phụ nữ vẫn giữ được tấm lòng son, biểu thị sự kiên trì và bền vững trong cuộc sống. Tấm lòng son là biểu tượng cho phẩm chất sắc son thủy chung và sự chịu đựng của người phụ nữ Việt Nam đối với cuộc sống đầy khó khăn và bất công. Hồ Xuân Hương cảm thương cho người phụ nữ và căm phẫn đối với người chồng, và điều này được thể hiện rõ ràng trong giọng thơ tự hào và quả quyết của bài thơ.
Bài thơ với thể thơ thất ngôn tứ tuyệt đã được Việt hóa hoàn toàn, dùng một ngôn ngữ bình dị, dân gian để miêu tả hình ảnh bánh trôi nước – món ăn dân tộc. Hàm súc đa nghĩa của thơ Xuân Hương biểu lộ sự tự hào và cảm thông đối với số phận và thân phận của người phụ nữ Việt Nam, có giá trị nhân bản đặc sắc. Nữ sĩ viết bài thơ này với tình yêu mến và niềm tự hào về bản sắc văn hóa Việt Nam.
3. Phân tích bài thơ Bánh trôi nước của Hồ Xuân Hương hay nhất:
“Bánh trôi nước” là một trong những tác phẩm nổi tiếng của Hồ Xuân Hương, thể hiện sự đẹp và số phận của người phụ nữ trong xã hội cổ truyền, đồng thời thể hiện tinh thần nhân văn cao cả.
Bài thơ có hai lớp nghĩa chính, lớp nghĩa đầu tiên là miêu tả thực tế của món bánh trôi nước, từ hình dạng đến cách làm. Bánh trôi nước có hình tròn, màu trắng tinh khiết. Việc làm bánh trôi đơn giản bằng cách nặn thành hình tròn nhỏ, bên trong có đường phèn hoặc đường phên nhỏ. Khi luộc chín, bánh trôi nổi lên trên nước. Bài thơ thể hiện sự chân thật và chính xác trong việc miêu tả món ăn dân dã, quen thuộc của người Việt.
Lớp nghĩa tả thực trong bài thơ “Bánh trôi nước” chỉ là bề ngoài, còn lớp nghĩa ẩn dụ lại rất tinh tế và sâu sắc, bóng dáng của bánh trôi nước cũng là biểu tượng cho người phụ nữ. Tác giả bắt đầu bài thơ bằng cách sử dụng cụm từ “Thân em”, một mô típ quen thuộc trong văn học dân gian, để diễn tả nỗi đau của người phụ nữ trong xã hội xưa. Hồ Xuân Hương sử dụng các ngôn ngữ dân gian trong bài thơ để tạo sự gần gũi và mềm mại với đời sống, đồng thời làm cho tiếng thơ trở nên chân thật và tràn đầy tính nhân văn, trở thành tiếng thơ của mọi người. Như ca dao
“Thân em như tấm lụa đào,
Phất phơ giữa chợ biết vào tay ai”.
Hồ Xuân Hương đã tinh tế và sâu sắc khi ẩn dụ thông qua hình ảnh bánh trôi để thể hiện số phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Trong bài thơ, cách làm bánh trôi được miêu tả chi tiết, từ hình dáng, màu sắc đến cách chế biến. Tuy nhiên, đằng sau lớp nghĩa tả thực ấy là lớp nghĩa ẩn dụ sâu xa. Hình ảnh bánh trôi được dùng để biểu tượng cho người phụ nữ.
Hồ Xuân Hương khai thác mô típ quen thuộc trong văn học dân gian bằng cách sử dụng hai chữ “Thân em” để miêu tả nỗi đau thân phận của người phụ nữ trong xã hội cũ. Tiếng thơ của bà được đồng điệu, gặp gỡ với những tiếng hát than thân trong ca dao. Điều này khiến cho thơ của Hồ Xuân Hương trở nên gần gũi, mềm mại với đời sống, đồng thời thấm đầy chất nhân bản. Những ngữ liệu dân gian mà bà sử dụng không chỉ làm cho tiếng thơ trở nên da diết mà còn trở thành tiếng thơ của bao người. Từ đó, bài thơ “Bánh trôi nước” không chỉ là một tác phẩm nghệ thuật, mà còn là một tấm gương sáng về tình yêu thương, lòng nhân ái và sự đồng cảm với những người phụ nữ bị kìm hãm, bị giới hạn trong xã hội cũ.
“Bảy nổi ba chìm với nước non
Rắn nát mặc dầu tay kẻ nặn”
Thân phận của những người phụ nữ trong xã hội cũ thật đáng thương, họ chẳng khác gì những tấm lụa đào, những hạt mưa sa, cứ lặng lẽ nở hoa, rơi rụng vô tình. Trong xã hội đó, họ không được tự quyết định số phận và hạnh phúc của mình. Khi ở nhà, họ phải phụ thuộc vào cha mẹ, cha mẹ đặt đâu họ phải ngồi ở đó. Đến khi đã yên bề gia thất, số phận của họ lại tiếp tục bị phụ thuộc vào người chồng.
Tuy nhiên, những người phụ nữ ấy lại mang trong mình những phẩm chất hết sức tốt đẹp. Họ là những người thông minh, kiên cường, và chịu đựng được những gian khổ của cuộc đời. Họ cũng rất yêu thương gia đình, luôn chăm sóc cho những người thân trong gia đình một cách tận tình và dành cho con cái của mình sự quan tâm, nuôi dưỡng chúng một cách tử tế. Tất cả những phẩm chất đó đã giúp họ vượt qua được những khó khăn của cuộc đời, và trở thành những người mẫu mực trong mắt của đời sau.
“Mà em vẫn giữ tấm lòng son”
Những phụ nữ tuyệt vời, luôn giữ trong tâm hồn họ những giá trị tinh thần cao đẹp, không bị đánh mất bởi bất kỳ khó khăn nào. Họ là những người phụ nữ Việt Nam, có tấm lòng son sắt và thủy chung.
Chữ “son” xuất hiện như một điểm sáng trong bài thơ, đó là biểu tượng cho sự đẹp và cao quý của nhân cách và phẩm chất của người phụ nữ Việt Nam. Với ngôn ngữ cô đọng, hàm súc của thể thơ thất ngôn tứ tuyệt, bài thơ sử dụng nghệ thuật ẩn dụ đặc sắc để tạo ra một tác phẩm gần gũi và uyên bác, nhưng vẫn đầy tài hoa.
Bài thơ không chỉ ca ngợi vẻ đẹp nội tâm của người phụ nữ Việt Nam, mà còn thể hiện sự cảm thông với số phận của họ trong xã hội phong kiến đầy áp bức và hạn chế. Tất cả những yếu tố này đã góp phần tạo nên thành công của tác phẩm.