Sách để đọc có thể rất nhiều thể loại tuy nhiên để thấy được một hiện tượng thân thuộc và có hướng giống với đời sống ngoài cuộc sông thì chuyện cổ tích hay chuyện về đời sống có khá nhiều như cô bé bán diêm, chiếc lá cuối cùng hay dế mèn phiêu lưu ký của tác giả tô Hoài. Sau đây là một số phân tích suy nghĩ của bản thân về một hiện tượng đời sóng được gợi ra từ những cuốn sách đó.
1. Trình bày suy nghĩ trước một hiện tượng đời sống được gợi ra từ quyển sách “Cô bé bán diêm”:
Trong tủ của em, có một quyển sách rất nhỏ đã cũ nhưng luôn được gìn giữ cẩn trọng. Đó là cuốn truyện cổ tích Cô bé bán diêm của nhà văn Andersen.
Câu chuyện kể về cuộc đời nghèo khó đầy bi kịch của một cô gái nhỏ làm công việc bán diêm. Bi kịch của cuộc đời em đã được đưa lên cao trào giữa đêm tuyết lạnh giá và cũng chấm dứt ở đó. Hình ảnh một bé gái nhỏ bé, gầy guộc, quần áo tả tơi và co ro giữa đêm tuyết lạnh lẽo trong tác phẩm khiến em vô cùng thương xót. Bé gái đó còn nhỏ như thế, sao đã phải sống một cuộc sống bất hạnh, đầy những tiếng mắng nhiếc, chửi rủa của cha và phải lang thang bán diêm để sinh nhai. Em hông còn phải đối diện với cái giá lạnh của tiết trời mùa đông tuyết rơi trắng. Còn phải đối diện với cái lạnh lẽo của lòng người khi không một ai dám giúp em mua lấy một bao diêm. Sợ hãi người cha ở quê sẽ bị giết, em thu vào trong khe hở giữa hai bức tường và qua đời ở đó. Giây phút mất đi, em mỉm cười vui sướng khi đã được giải phóng, được sống với bà và đoàn tụ với Thượng Đế thân yêu của mình.
Cô bé bán diêm ấy đã khiến em nhớ về thật nhiều các trẻ em vô tội trong cuộc sống hôm nay. Bên cạnh những em trẻ được người thân yêu thương, quan tâm và chăm sóc. Thì cũng có không hiếm các em bị bỏ rơi, bị ngược đãi, đánh đập, bạo lực từ người thân và những kẻ lạ mặt. Bởi nhiều em còn nhỏ như vậy, chưa có đầy đủ năng lực tự yêu thương và chăm sóc bản thân mình, cho nên không thể nào phản kháng trước những kẻ xấu ác độc đó.
Chính vì thế, em nghĩ rằng việc chúng ta cần làm ngay từ bây giờ, là cứu lấy các thiên thần nhỏ bé ấy. Trước hết, đó là thông qua việc giáo dục các quyền lợi của trẻ em và lên án những hành vi bạo lực trẻ nhỏ. Tiếp đó là có biện pháp ngăn chặn, xử lý nghiêm khắc các hành vi cố tình dùng vũ lực cả tinh thần và thể chất với trẻ nhỏ. Tuy nhiên, điều quan trọng nhất lại vẫn là nhận thức của những người xung quanh chúng ta. Chỉ cần mỗi một người chúng ta có tình yêu thương và khoan dung với người xung quanh, thì sẽ không bao giờ phải quá lo lắng về việc các mầm non nhỏ bé đó bị bỏ rơi hay bạo hành. Để được như thế, thiết nghĩ việc giáo dục học sinh ngay cả khi còn trên mái trường là việc hết sức quan trọng.
Cuốn truyện Cô bé lem đã gợi lại trong em nhiều ý nghĩ và tình cảm rất khó diễn tả. Đó là tình yêu thương và đồng cảm với nhiều bạn trẻ có số phận bi thảm. Đó là lòng căm thù với một số kẻ nhẫn tâm, vô cảm và ác độc đã bỏ rơi, bạo hành các em. Em mong sao, rồi đây thế giới chúng ta sẽ trở nên thiện lành hơn nữa để giúp những em nhỏ luôn được sống an toàn và hạnh phúc, không ai phải chị nghèo, chịu đói lạnh hay tủi khổ giống cô bé bán diêm cả.
2. Viết đoạn văn bày tỏ suy nghĩ trước một hiện tượng đời sống được gợi ra từ quyển sách đã mua:
Chiếc lá cuối cùng thuộc chương cuối của tác phẩm cùng tên của nhà văn người Mĩ O Hen-ri. Truyện là lời tự sự, ngợi ca cái thiện và sức mạnh tình người giúp con người vượt qua bao thử thách, khó khăn của cuộc sống. Ngoài ra tác phẩm còn gửi gắm nhiều thông điệp nghệ thuật ý nghĩa.
Trong tác phẩm gồm ba nhân vật chính: Giôn-xi, Xiu và cụ Bơ-men, mỗi nhân vật sẽ được phân làm hai tuyến chính: Giôn-xi sống trong tuyệt vọng, đếm những cái lá để đợi đến ngày mình cuối cuộc đời, cụ Bơ-men và Xiu hết lòng chăm sóc và giúp đỡ Giôn-xi vượt qua bệnh tật quái ác. Giôn-xi là một cô hoạ sĩ nghèo sống trong một nhà trọ tồi tàn ở ngoại thành, cô sống giữa sự nghèo khổ và bệnh tật (bệnh sưng phổi) , đây không phải là căn bệnh khó chữa trị, tuy nhiên cô đã mất dần niềm tin với cuộc sống nên bệnh tình càng ngày càng tệ hơn, cô không muốn dùng thuốc, chán chường, tuyệt vọng nhặt từng cái lá trên cành cây. Khi cái lá cuối cùng rơi đi cũng là lúc cô rời khỏi cuộc sống này. Qua một đêm mưa gió dữ dội, khi chiếc mành cửa được kéo lên, cô nhìn thấy một chiếc lá mắc trên nền nhà. Đó quả thực là một điều khó tin khi đêm qua mưa gió, tuyết to, mà chiếc lá đã can đảm đu mình trên cành cao như thế. Chính chiếc lá cuối cùng đã làm biến đổi nhận thức của Giôn-xi và giúp cô lấy thêm được sức mạnh, niềm tin vào cuộc sống. Bởi vậy, cô đã vượt qua bệnh tật và lại ấp ủ trong lòng bao mơ ước, dự định. Xiu là bạn chung nhà với Giôn-xi và cũng là một hoạ sĩ nghèo, trong mấy hôm bạn ốm, Xiu đã hết sức yêu thương, chăm sóc: bón thức ăn, nói chuyện nhẹ nhàng, cử chỉ dịu dàng vỗ về Giôn-xi để giúp bạn lấy lại tinh thần, bệnh tật chóng qua khỏi. Trong mấy ngày Giôn-xi bệnh, điều cô sợ nhất đó là kéo bức mành cửa sổ lên và thấy chiếc là cuối cùng đã rơi xuống nước. Vào đêm mưa gió, Xiu không ngủ được, cô sợ chiếc lá ngoài cửa sổ đã bị mưa gió lấy mất và người bạn Giôn-xi sẽ lìa bỏ mình vĩnh viễn. Bởi vậy, sáng hôm sau, khi có mệnh lệnh của Giôn-xi cô chán nản, tuyệt vọng và vô cùng lo sợ lấy chiếc mành đi. Và cô đã vui biết dường ấy khi chiếc lá hãy còn xanh, cô đun nước, mời bác sỹ về chữa bệnh giúp Giôn-xi. Chính tình yêu thương, mối quan tâm sâu sắc của Xiu đã góp phần tăng thêm nghị lực sống nơi Giôn-xi. Cụ Bơ-men chỉ hiện diện lướt qua lại trong tác phẩm, song tấm lòng, đức hi sinh của cụ luôn có ý nghĩa quan trọng nhất với Giôn-xi. Cụ Bơ-men là một hoạ sĩ già, đã ngoài sáu mươi tuổi, vẫn sống bằng việc ngồi làm người mẫu vẽ cho những hoạ sĩ trẻ. Hơn bốn mươi năm theo nghiệp cụ chỉ có một khao khát tột cùng đó là vẽ được một kiệt tác. Khi thấy được sự đau khổ, tuyệt vọng của Giôn-xi cụ vô cùng lo lắng rồi nghĩ cách cứu mạng sống Giôn-xi. Tình yêu thương của cụ giành tặng Giôn-xi rất lớn lao và cao cả. Trong đêm tối mưa to gió mạnh cụ đã không quản trời rét, không lo lắng đến bệnh tật và tính mạng bản thân để thao thức suốt đêm bí mật vẽ cái lá xuân cuối cùng nhằm cứu sống Giôn-xi. Người hoạ sĩ già đó đã quên mình vì người khác – một sự hi sinh âm thầm, cao đẹp mà lớn lao.
Chiếc lá cuối cùng của cụ xứng đáng là một kiệt tác không chỉ bởi nó giống hệt cái lá xuân đến khiến cho Giôn-xi và Xiu không phát hiện thấy, trái lại nó còn ẩn chứa niềm hy vọng sống. Chiếc lá được vẽ với tất cả tình yêu cùng tấm lòng và đức hi sinh cao đẹp của cụ Bơ-men. Đồng thời kiệt tác của cụ cũng ẩn chứa thông điệp nghệ thuật giàu ý nghĩa: một tác phẩm nghệ thuật thực sự là tác phẩm được làm nên nhằm giúp đỡ con người. Tác phẩm được thuật lại theo cách kể câu chuyện sinh động, đầy lôi cuốn với nhiều chi tiết được chọn lựa kỹ càng, thậm chí là những tình huống truyện lật ngược hai lần. Giôn – xi từ chỗ tuyệt vọng, không còn niềm tin ở cuộc sống đến chỗ lấy được niềm tin, hết bệnh rồi lại vui vẻ; cụ Bơ-men từ chỗ hạnh phúc đến chỗ ra đi đầy bất ngờ.
Nghệ thuật tạo hình nhân vật cũng khá thành công. Ba nhân vật có hoàn cảnh tương đồng, tuy nhiên từng người lại có cá tính riêng biệt. Kết thúc nhân văn, có ý nghĩa tạo ấn tượng sâu sắc trong lòng người xem. Với mạch truyện đầy gay cấn, kịch tính tác phẩm đã cho thấy tình yêu thương cao đẹp có ý nghĩa rất lớn, giúp con người vượt qua nhiều gian nan, thử thách của cuộc đời. Đồng thời cũng thấy được ý nghĩa của một tác phẩm nghệ thuật chân chính tạo nên là nhằm phụng sự và phục vụ cuộc sống con người.
3. Ý kiến của một hiện tượng đời sống được rút ra từ quyển sách tôi đã xem hay nhất:
Một trong các cuốn tiểu thuyết ấn tượng nhất với tác giả là “Thép đã tôi như thế đó” của Nikolai A. Ostrovsky. Với nhân vật Pavel, tác giả đã đặt ra một vấn đề trong cuộc sống là tinh thần lạc quan và khát vọng tuổi trẻ mạnh mẽ cùng lòng yêu nước nồng nàn của con người.
Tác phẩm kể về cuộc sống của Pavel Korchagin (hay được viết là Pavlusha hoặc Pavka) – một thanh niên khởi nghiệp trong khi điều kiện đất nước đang có nhiều khó khăn. Anh chơi thân thiết với một cô bạn gái tên là Tonya, rồi sau này thành người yêu. Tonya là một cô gái xinh xắn, yêu Pavel với tất cả tình cảm đầu trong sáng thơ ngây của một thiếu nữ mới lớn. Tình cảm của hai người có lẽ sẽ thật đẹp và viên mãn nếu không có chuyện Pavel nghe theo lời khuyên của lý tưởng giai cấp lúc ấy. Đó là ý định được hiến dâng tuổi thanh xuân của anh phụng sự cho Đất nước, vì cách mạng. Tonya cũng yêu Pavel nhưng không thể đợi chờ anh được hoặc chính xác hơn nữa là không muốn “yêu một lý tưởng”. Đặc biệt là khi gia đình của cô cũng ở tầng lớp trung lưu. Pavel đã nói với cô thế này: “Anh trước hết là người của Đảng – rồi sau mới là người của em cùng nhiều người thân nữa. Em có gan yêu một công nhân, anh cũng không có gan yêu một lý tưởng “.Sau cùng, Pavel chia tay Tonya để lên đường theo lý tưởng của lenin.
Pavel trong tác phẩm được miêu tả là một thanh niên giàu lý tưởng, được rèn luyện trong “lò lửa” của cách mạng. Tác giả Nikolai A. Ostrovsky đã gửi gắm trong tác phẩm trên một lí tưởng sống cao cả: “Cái quý giá nhất của con người chính là mạng sống. Đời người chỉ sống có một lần. Phải sống làm sao mà không day dứt, hối hận sau bao năm tháng đã sống gian, sống lãng phí, cho đỡ xấu hổ về những sai lầm và nông nổi của tuổi trẻ, để khi nhắm mắt xuôi tay có thể nói rằng: tất cả đời ta bằng toàn bộ sức lực mình, ta đã cống hiến vào lý tưởng cao quý nhất trên đời, cuộc chiến đấu giải phóng nhân loại. ..”. Đó cũng là thứ tình cảm mà thế hệ chúng ta cần phải hướng về cho dù trong bất kì trường hợp ế nào.
Như vậy, “Thép đã tôi thế đó” đã giúp tôi hiểu biết hơn những thế hệ thanh niên nước Nga trong cách mạng. Đồng thời, tác phẩm cũng đặt ra đối với thế hệ trẻ – lớp công dân tương lai của đất nước một bài học quý giá về lòng yêu tổ quốc và khát vọng cống hiến cùng nhau xây dựng cuộc sống.
4. Ý kiến của một hiện tượng đời sống được rút ra từ quyển tôi đã xem ấn tượng nhất:
Từ câu chuyện “Dế Mèn bênh vực kẻ yếu” đã khiến em liên tưởng về hiện tượng bạo lực học đường trong cuộc sống phổ biến hiện nay.
Ở một số trường học và ngoài cuộc sống cũng đã xuất hiện những vụ việc các bạn yếu tâm lý bị nhóm bạn mạnh mẽ về thể xác bắt nạt. Nhiều bạn coi việc bắt nạt người lạ như trò giải trí và nhằm thể hiện sức mạnh của bản thân. Bạo lực trước hết gây tổn thương sức khoẻ tinh thần trầm trọng đối với nhóm bạn chịu đựng các loại đánh đó. Bên cạnh đó là những tổn thương nghiêm trọng đến tâm lý. Nếu mãi thờ ơ và lo sợ bị tổn hại cho bản thân mình nên không ra tay bênh vực khi bạn bị bắt nạt thì không biết được rằng sau này có thể bản thân mình cũng sẽ thành một trong số ít các nạn nhân đó. Chỉ cần đóng góp chút công sức cùng tinh thần của bạn, vấn nạn bắt nạt của thế giới sẽ dần được đẩy lùi. Hãy lên tiếng khi có tình trạng bắt nạt diễn ra và tỏ ra bênh vực bạn giống với chú Dế Mèn dũng cảm của chúng ta. Đứng ra tố giác các hành động bắt nạt học đường, không thể vì nỗi sợ và xấu hổ mà bỏ qua.
Hãy nói và chia sẻ với nhau nhiều hơn nữa thay vì bằng hành vi. Hãy yêu thương lẫn nhau và không gây hại nhau, khi đó nạn bạo lực học đường sẽ còn là dĩ vãng nữa bạn ạ!
5. Trình bày quan điểm của một hiện tượng đời sống ý nghĩa nhất:
An-đéc-xen đã không dùng đôi cánh ảo tưởng để bay bổng mà lại quỳ thẳng dưới thực tế khắc nghiệt của cuộc sống, biết đồng cảm và yêu thương các hoàn cảnh khó khăn, để nhìn ra và quý trọng những tâm hồn trong trẻo, thuần khiết của con người. Ta thấy rõ được thái độ thờ ơ, vô cảm trong tác phẩm Cô bé bán diêm của An-đéc-xen.
Vô cảm còn là cách sống lạnh nhạt, thờ ơ trước cuộc sống, với mỗi người ở quanh chúng ta. Bản thân chúng ta không quan tâm, không có ý thức đối với cả bản thân mình và với người xung quanh. Hiện nay khi đất nước ngày càng lớn mạnh sự vô cảm này có thể dẫn đến trở thành một loại bệnh. Cần phải có “phương thuốc” để nuôi dưỡng và kéo gần hơn tình cảm của người với người, phương pháp đó sẽ hạn chế được cách sống lạnh nhạt, thờ ơ này ở con người trong thế giới này. Căn bệnh vô cảm khi đã xuất hiện trong con người nó sẽ ăn thân, bén rễ không bao giờ dứt. Mỗi người cần có cách, có biện pháp nhằm ngăn chặn bệnh vô cảm có thể gặm nhấm tâm hồn của mỗi người.
Truyện của An-đéc-xen khép lại nhưng lòng người ta cũng không thôi hoang mang, lo lắng, day dứt nghĩ về con người, cuộc sống, về tình bạn, tình thân. Nhà văn không né tránh sự thật nghiệt ngã. Cô bé có trái tim trong sáng, thuần khiết nhưng đã chết, chết ngay giữa thời khắc giao thừa, trong cơn đói, trận giá rét khủng khiếp. Một năm mới sang với bao hy vọng mới nhưng cô bé đã chấm dứt chuyến đi của em tại ngay ngưỡng cửa của năm mới. Không có hy vọng, đâu có tương lai nào cho em. Trước khi chết vì đói, vì khát, em đã chết bởi những cái thờ ơ, vô cảm, nhẫn tâm và ích kỷ của con người. Em không dám về nhà bởi lo sợ những lời mắng chửi, đánh của bố, em lạc lõng, hoang mang, bất lực đối chọi với sự giá lạnh trước đôi mắt vô cảm, thờ ơ của nhiều người đi đường, em cô đơn, buồn tủi khi mọi người vui tươi, hoan hỉ chào đón năm mới, em nằm đó trong bao lời bàn tán ác ý của mọi người. Em từ giã thế gian, giã từ cuộc sống bởi không ai yêu thương em, không ai chở che, bao bọc em. Cái chết của em đã để lại sự tiếc thương, niềm day dứt và một câu hỏi thường trực trong lòng mỗi người: làm sao mà không lúc nào trên thế giới chúng ta vẫn có nhiều số phận éo le như cô bé bán diêm?
Truyện gần gũi, giản dị nhưng đặt ra nhiều vấn đề vô cùng sâu xa, chứa đựng tính nhân đạo cao cả và tấm lòng yêu thương, quý trọng con người của nhà văn. Cái cuối truyện như một câu nói vô cùng day dứt, như một lời nhắn nhủ nhà văn gửi gắm cho rất nhiều thế hệ bạn đọc ở khắp bốn phương giời trong nếp sống, lối ứng xử và tình cảm với mỗi người chung quanh, nhất là các cảnh đời éo le.